Ngày xửa ngày xưa, ở một vùng nọ bỗng nhiên xuất hiện một con yêu ma phi xở, là loại yêu ma rất ác độc chuyên hại người. Yêu ma phi xở bắt dân bản hằng năm phải cống nạp một đứa trẻ độ tuổi lên tám lên mười để cho nó ăn thịt. Ma phi xở vốn có phép thuật cao cường, nên dân bản đều vô cùng sợ, không một ai dám chống lại, mà đành phải nghe theo. Những nhà nào có trẻ con nằm trong độ tuổi sẽ phải rút thăm, lá thăm xấu số trúng nhà nào thì nhà ấy phải chịu đem con nộp mạng cho phi xở.
Có một nhà nọ, người cha sống trong cảnh gà trống nuôi con. Đứa con trai nhỏ của ông cũng đã bắt đầu sắp đến tuổi lên tám. Lo sợ rồi sẽ đến lượt đứa con duy nhất của mình phải làm vật hy sinh, hiến tế cho phi xở, nên người cha quyết định đem con trốn đi thật xa, giấu vào tận trong rừng sâu, nơi đứa con nhỏ sẽ không thể biết đường mà trở về.
Vậy là ông mang theo một con chó cùng dẫn đứa con nhỏ trốn vào rừng sâu. Hai cha con và con chó đi mãi, đi mãi, vượt qua mười ngọn núi cao, mười cái khe sâu, mười con suối thì tới một khu rừng toàn những cây cổ thụ rêu phong mốc thếch.
Cha mới hỏi con:
– Con ơi, con có biết đây là nơi nào không?
Đứa con nhỏ đáp:
– Rừng sâu như thế này, con chịu chẳng biết là nơi đâu!
Người cha nghĩ bụng, mình để con ở lại chỗ này là được rồi. Ông dẫn con đi đến một gốc cây cổ thụ to nhất, thương con, đau như cắt trong lòng, ông không kìm nén được, nên những giọt nước mắt cứ ứa chảy ra. Đứa con nhỏ nhìn thấy, bèn hỏi:
– Tại sao bố lại khóc!
Người cha vội chùi nước mắt, nói đánh trống lảng:
– Khóc đâu mà khóc, mồ hôi trên trán bố chảy xuống đấy thôi!
Thế rồi ông bảo con:
– Hai bố con ta sẽ nghỉ lại ở dưới gốc cây to này!
Sau đấy, ông chặt lấy một ống nứa, kín đáo chọc thủng một lỗ rò dưới đáy, rồi sai đứa con trai nhỏ đi tìm múc nước. Trong khi đứa con đang đi tìm nước thì người cha lén bỏ về. Nhưng con chó cứ đi theo ông. Người cha thấy vậy, bèn cắt dây rừng, cột chó vào gốc cây để cho nó ở lại cùng với đứa con trai. Con chó không thể đi theo người cha được nữa. Ông trở về nhà một mình, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc.
Còn đứa con trai nhỏ đi khá xa mới tìm gặp được một mạch nước con con. Nó hứng lấy đầy ống nước rồi trở về, nhưng cứ đi được một đoạn thì nước trong ống lại bị rò rỉ, cạn sạch. Vậy là nó lại phải quay lại múc lần khác. Cứ như vậy, mãi mà đứa nhỏ vẫn chẳng lấy được nước. Có một con chim tắng ló nhìn thấy thế, mới hót rằng:
– Bẳng nặm củn lố! Bẳng nặm củn lố! (Ống đựng nước bị thủng đáy!).
Nghe chim tắng ló hót vậy, đứa nhỏ mới lật đáy ống lên xem. Nó nhìn thấy một lỗ thủng nên biết tại sao mà mình hứng nước mãi vẫn không được. Nó bèn bứt lấy lá bịt vào lỗ rò, nhờ đó mà đã hứng đem được nước về.
Song nào ngờ, trở về đến chỗ gốc cây cổ thụ thì đứa nhỏ đã không còn thấy cha ở đó nữa. Chỉ còn lại mỗi con chó, nhìn thấy nó thì miệng kêu ư ử, đuôi vẫy tít mừng rỡ.
Đứa nhỏ sợ quá, nên kêu la, khóc lóc thảm thiết. Con chó thấy chủ khóc thì cũng cất tiếng sủa vang, làm động cả một góc rừng.
Không may cho đứa nhỏ. Ở ngay trên cái cây cổ thụ đó lại có một con ma phi xở lôông đang nằm ngủ. Tiếng động đã làm nó thức dậy. Mùi hơi người khiến cho phi xở lôông tỉnh ngủ hẳn, nó ngó xuống gốc cây thì thấy có một đứa bé và một con chó đang ở dưới đó.
Thoắt một cái, phi xở lôông đã rời khỏi cây xuống mặt đất, nó gầm gừ định ăn thịt đứa nhỏ. Đứa nhỏ liền quỳ xuống, khóc lóc, van lạy xin phi xở lôông tha cho, đừng ăn thịt. Nước mắt của đứa nhỏ chạy nhiều quá, khiến phi xở lôông động chút lòng từ tâm. Nhưng phi xở lôông ra điều kiện:
– Vậy thì ta sẽ ăn con chó!
Đứa nhỏ lại van vỉ:
– Con nay chỉ còn có mỗi nó làm bạn. Nên con cũng cầu xin phi xở lôông tha cho, đừng có ăn!
– Vậy ta sẽ ăn tai chó!
– Xin ma đừng ăn! Hãy để tai lại cho nó nghe!
– Vậy ta sẽ móc mắt chó để ăn!
– Ma ơi! Móc mắt thì nó mù mất, chẳng còn nhìn thấy đường!
Phi xở lôông tiếp tục gầm lên:
– Nếu vậy, thì ta sẽ ăn mõm nó!
– Thưa ma! Ăn mất mõm thì chó sẽ không còn gì để sủa!
– Thế thì mày sẽ để cho ta ăn chân chó chứ?
– Đừng, phi xở lôông ơi! Chân chó còn để đi!
Phi xở lôông bực lắm, nó bèn xông tới định ăn thịt cả đứa nhỏ lẫn con chó. Đứa nhỏ thấy chết đến nơi, mới càng cuống quýt, ra sức van xin hơn nữa:
– Phi xở lôông ơi! Nếu phi xở lôông đói thì đi tìm bắt một con thú để ăn lúc nào mà chẳng được. Vậy hãy tha cho con và con chó. Con xin hứa, từ nay sẽ ở lại làm đứa bé hầu hạ cho phi xở lôông.
Nghe nói cũng có lý, phi xở lôông liền tha cho và giữ đứa nhỏ cùng con chó ở lại để làm kẻ hầu hạ. Đứa nhỏ hầu hạ phi xở lôông hết sức chu đáo, cẩn thận, vì thế, càng ngày phi xở lôông càng thấy quý mến đứa nhỏ. Dần dần, phi xở lôông coi đứa nhỏ như con. Vậy là hàng ngày, nó đem bùa võ ra truyền dạy cho đứa nhỏ.
Tháng qua rồi năm qua, thấm thoắt, đứa nhỏ ngày nào đã lớn trở thành một chàng thanh niên tuấn tú. Đến lúc này, phi xở lôông không nỡ giữ chàng trai ở lại bên cạnh mình nữa. Phi xở lôôngnghĩ, nếu nó vẫn ở lại đây thì sẽ không thể nào lấy được vợ, vậy nên cần phải chỉ đường để cho nó trở về sống chung cùng với những con người.
Được phi xở lôông chỉ đường cho về, lại còn tặng cho thêm một thanh đoản kiếm có khả năng trừ yêu diệt ma, chàng thanh niên hết sức mừng rỡ. Sau khi lạy tạ ơn phi xở lôông đã có công nuôi mình trong suốt những năm tháng qua, anh với con chó cùng cắt núi băng rừng trở về bản. Cả hai đi vượt qua được mười ngọn núi cao, mười cái khe sâu, mười con suối thì trở về đến bản. Khi đi qua ngôi nhà to nhất của tạo bản thì anh nghe thấy vang lên toàn những tiếng khóc than buồn bã. Không hiểu có việc gì xảy ra, anh mới tạt vào ngôi nhà nhỏ của một bà goá để hỏi thăm.
Bà goá kể cho anh biết hết mọi chuyện, và nói:
– Năm nay đến lượt tạo bản rút trúng lá thăm phải đem nộp con gái yêu cho phi xở ăn thịt.
Vốn đã từng được phi xở lôông truyền dạy cho bùa võ, chàng trai quyết định sẽ giúp dân bản trừ hại yêu. Anh đi đến ngôi nhà nhỏ được dựng ở trên núi, là chỗ để người hiến tế cho yêu ma. Anh vào trong, thấy nàng xao con gái của tạo bản đang bị trói ngồi ở đó, nước mắt cô ràn rụa, người thì run rẩy đón đợi cái chết đang đến gần. Chàng trai đến bên nàng xao để cởi trói và trấn an, bảo rằng hãy yên tâm, rồi anh sẽ giết bằng được yêu ma phi xở để cứu cô. Sau đó, anh dán một lá bùa lên người của nàng xao, còn bản thân thì nấp kín vào một chỗ rình yêu ma.
Khi hoàng hôn bắt đầu tắt, thì thình lình có một làn gió tanh tưởi bắt đầu ào đến. Nàng xao sợ co rúm cả người lại. Yêu ma phi xở xuất hiện, nó định bắt cô, nhưng đã bị lá bùa ngăn lại. Đúng lúc đó, chàng trai từ chỗ nấp lao ra, anh dùng đoản kiếm giết chết phi xở.
Giết chết xong phi xở, chàng trai bỏ đi ngay, không để cho nàng xao kịp nói lời tạ ơn. Vì thế, cô chỉ kịp túm lấy, làm rách và giữ lại một vạt áo chàm của anh. Chàng trai quay trở về bản, vì người cha già đã mất, nên anh xin tá túc ở nhờ nhà bà goá.
Sáng sớm hôm sau, người nhà cùng dân bản đến hòng mong nhặt lấy xương cốt của nàng xao đem về để chôn cất. Vừa mới đặt chân đến trước cửa thì đã nghe thấy tiếng nàng xao gọi to:
– Bố mẹ ơi, con vẫn đang còn sống đây!
Tất cả mọi người giật mình kinh hãi, tưởng vong hồn của nàng xao gọi. Họ định ù té chạy. May thay, nàng xao bằng da bằng thịt đã nhanh chóng chạy ra gặp mọi người, giúp cho mọi người tĩnh trí, không còn sợ nữa.
Yêu ma phi xở đã bị diệt trừ, nàng xao đã sống sót trở về, nên nhà tạo bản mổ trâu, mổ lợn, giết gà mở tiệc lớn ăn mừng. Đồng thời tạo cũng loan báo với tất cả dân bản rằng, trong bữa tiệc đó, nếu chàng trai nào mặc chiếc áo chàm có chỗ rách khớp với miếng vải mà nàng xao đang cầm giữ trong tay thì đấy chính là người đã có công giết chết yêu ma phi xở, trừ hại cho dân bản. Và tạo sẽ gả nàng xao cho chàng trai đó.
Tiệc lớn diễn ra vô cùng đông vui, không kém gì tết năm mới. Nàng xao đem miếng vải đi thử tất cả các chàng trai có mặt trong bữa tiệc, nhưng không có một ai vừa vặn cả. Nàng xao đang thất vọng, thì có người nói cho hay rằng, có một chàng trai đang ở nhà bà goá, rủ thế nào cũng không chịu đến dự tiệc. Vậy là cô báo cho tạo cha biết, để tạo phái người đi mời cho bằng được chàng trai đến.
Khi chàng trai được dẫn đến bữa tiệc, nàng xao liền đem tấm vải đọ lên chiếc áo của anh đang mặc thì vừa khít khìn khịt. Nhận ra đây đúng là chàng thanh niên đã cứu mình, nàng xao vui mừng đưa anh đến gặp mặt tạo cha và nói rằng đây chính là người đã trừ hại yêu ma giúp dân bản.
Tạo cha lập tức tuyên bố tổ chức luôn đám cưới. Mời không chỉ có dân ở trong bản mà tất cả những người ở trong mường.
Và cũng bắt đầu từ đấy, đàn ông người Thái mới mặc chiếc áo chàm có xẻ tà để tượng trưng cho lòng dũng cảm.
(Sự tích dân gian Thái).