Công trình “Bản sắc văn hóa Việt Nam” góp phần xây dựng một ngành khoa học đang trên đà hình thành là văn hóa học, nhằm cung cấp một số khái niệm cho ngành này để nghiên cứu bản sắc văn hóa Việt Nam.
Từ trước đến nay, có vô số công trình đã viết về văn hóa. Nhưng trong các công trình đã xuất bản, thường thiếu một sự nhất quán về phương pháp, khái niệm. Nếu như các mặt được xem là thuộc về văn hóa như xã hội, chính trị, giáo dục, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng… được trình bày, thì người đọc có cảm tưởng là lấy ỏ những ngành khoa học hữu quan rồi đưa vào sau khi đã rú t lại cho gọn. Người đọc không thấy cái m ặt văn hóa của các phương diện này.
Theo người viết, để làm điều này, phải lo xây dựng hệ thống khái niệm của văn hóa học cho nhất quán; các khái niệm này đều phải có giá trị thao tác (opérationnel) tức là cho phép ta hành động có kết qúả chứ không phải chỉ cung cấp kiến thức.
Các định nghĩa thao tác luận của các khái niệm trong văn hóa học phải nhất quán với nhau hệt như những định nghĩa trong các khái niệm của toán học; đông thời phải khiên người ta có thể dựa vào đấy má tim được đặc trưng của văn hóa không lẫn lộn với bất kể đối tượng nào của mọi ngành khoa học. Không những thế, nó sẽ giúp cho ta hiểu “tại sao” ở Việt Nam chẳng hạn, từng mặt của văn hóa như chính trị, văn học… lại có những nét riêng khác ở một nên văn hóa khác, như văn hóa Trung Hoa, văn hóa Pháp chẳng hạn. Nó lại phải có giá trị thực tiễn, cho phép ta tìm được phương pháp nghiên cứu, bảo vệ, đổi mới và phát huy văn hóa Việt Nam phù hợp với thời đại vá yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bàng, văn minh
Trong công trình Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, chúng tôi có thử đưa ra một số khái niệm như vãn hóa, tiếp xúc văn hóa, khúc xạ, giao lưu, bản sắc, tâm thức… Các khái niệm này thực tế không phải của riêng văn hóa học, nhưng một khi được chấp nhận là những công cụ của văn hóa học, chung đều phải được lý giải nhât quán theo yêu cẩu của văn hóa học để phục vụ cách làm việc riêng của ngành.
Như vậy, công trình từ đầu đến cuối mang tính bình luận (critique) mà không phải là công trình miêu tả. Người viết không xét văn hóa ở cấp độ hiện tượng như phần lớn các công trình đã có, mà xét ở cấp độ quan hệ, với tính cách biểu hiện của những quan hệ có mặt trong tâm thức con người với tính cách người.
Cách lám của người viết khảo sát các hiện tượng được xem là thuộc vê văn hóa để tìm hiểu tâm thức của chính mình, tìm cho ra cái nhu cầu bất biến của tâm thức mình, rôi sau đó dùng nhu cầu này để lý giải các hiện tượng. Chẳng hạn, nhu câu lựa chọn là một nhu cầu bất biến. Dân tộc Việt Nam có một kiểu lựa chọn riêng, đáp ứng những nhu cầu nội tâm riêng, không giống nhu cầu nội tâm của các tộc người khác. Các nhu cầu như ăn, mặc, ở, có gia đình, có của cải… lá chung cho mọi người. Song cách lựa chọn lại khác nhau ở từng tộc người.
Người Việt Nam trong lịch sử biểu lộ những kiểu lựa chọn riêng trong ăn mặc, sống, ở, không giống như các tộc người khác, đồng thời cũng có những nhu cầu riêng vê hạnh phúc không giống các tộc người khác, tuy tộc người nào cũng có nhu cầu hạnh phúc cả. Các biểu hiện của nhu cầu thay đổi và rất đa dạng nhưng vì tâm thức không thay đổi cho nên kiểu lựa chọn có những quan hệ không thay đổi.
Do đó, công trình mở đầu bằng phần I “Những khái niệm mở đầu”, gồm 4 chương:
Chương I: “Văn hóa và bản sắc vản hóa” với tính cách chương giới thiệu.
Chương II:”Bản sắc vãn hóa Việt Nam, cach tiếp cận”, sử dụng một số khái niệm đã nêu lên ở chương I để tiếp cận một nền văn hóa cụ thể là văn hóa Việt Nam. Chương náy nêu lên bốn yêu cầu bất biến của tâm thức Việt Nam là Tổ quốc, Gia đình – Làng xã, Thân phận và Diện mạo với tính cách những sự lựa chọn rất tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam.
Chương III: “Sự khác nhau giữa văn hóa Trung Quốc và vân hóa Việt Nam”, giới thiệu một nền văn hóa rất quen, thuộc với chúng ta, lá văn hóa Trung Hoa để thấy, tuy ở cấp độ hiện tượng hai nền văn hóa có nhiều điểm giống nhau, nhưng ở cấp độ quan hệ lại là hai kiểu lựa chọn rất khác nhau.
Chương IV: “Bề dày của văn hóa Việt Nam”, giúp người đọc có ý thức trong việc bảo vệ và phát huy văn hóa của mình. Vì trình độ có hạn, người đọc chưa dám đề cập tới văn hóa XHCN, văn hóa Mỹ, văn hóa hậu công nghiệp.
Sau một loạt chương chỉ có mục đích giới thiệu khái niệm, chúng tôi thử sử dụng hệ thống khái niệm này để khảo sát một số lĩnh vực cụ thể theo yêu cầu phương pháp luận của ngành.
Đó là Phần II “Giao lưu văn hóa” gồm 6 chương:
Chương V: “Bản sắc văn hóa Việt Nam trong giao lưu văn hóa, nền tảng của giao lưu quốc tế”, khẳng định một khái niệm mới “Giao lưu văn hóa” và trách nhiệm của mỗi người trong cuộc giao lưu mới này.
Chương VI: “Khổng học, quan hệ của nó với thời đại mới”, giới thiệu Khổng học ở trong nguồn gốc rất khác điều ta vẫn quan niệm về Nho giáo, và địa vị của nó trong giai đoạn mới của thế giới.
Chương VII: “Đạo Nho Việt Nam, một sự khúc xạ” để khẳng định ngay trong Nho giáo, cách lựa chọn của Việt Nam không giống như cách lựa chọn của Trung Hoa..
Chương VIII: “Chế độ học tập ngày xưa”, khảo sát cách đào tạo nhân tài ngày xưa, hy vọng cung cấp những suy nghĩ trong việc đào tạo nhân tài sao cho thích hợp với thời đại mới.
Chương IX: “Trí thức Việt Nam xưa với văn hóa” trình bày kiểu lựa chọn đã nói ở chương trên, dựa trên gần 6000 quyển sách của Viện Hán Nôm nhằm cung cấp một cái nhìn số lượng để chứng minh sự khúc xạ cũng như những ảnh hưởng văn hóa Hán một cách thực chứng.
Chương X: “Sơ lược về Đạo giáo Trung Hoa” trình bày Đạo giáo về lịch sử của nó ở Trung Hoa, nhằm mục đích nêu lên độ khúc xạ ở chương sau.
Chương XI: “Tín ngưỡng Việt Nam qua tiếp xúc với Đạo giáo Trung Hoa, mục đích chương này là để chứng minh tại sao tín ngưỡng Việt Nam lại có những thay đổi khá độc đáo so với cái gốc của nó ở Trung Quốc. Chúng tôi chưa có điều kiện viết về Phật giáo. Chúng tôi dự định khi về hưu sẽ đến một ngôi chùa học đạo Phật để viết. Một ngành khoa học, nếu được xây dựng đúng phương pháp, sẽ cấp cho ta thìa khóa để giải thích những hiện tượng hiện còn ở ngoài phạm vi của nó. Ai cũng biết những đóng góp của xã hội học, nhân loại học, kinh tế học trong các khoa học nhân ván và khoa học xã hội. Nếu như văn hóa học lả một khoa học, thì tất yếu nó sẽ góp phần vảo các khoa học khác để giới thiệu mặt văn hóa của các bộ môn này.
Do đó, công trình có phần III: “Cách nhìn vãn hóa học”, sử dụng những khái niệm của văn hóa học để khảo sát một số vấn đề còn được tranh cãi, mong góp cách tiếp cận của ngành khoa học mới. Nó gồm 3 chương:
Chương XII: “Truyền thống quân sự Việt Nam, nền tảng của mọi thắng lọi quân sự”, để góp phần soi sáng khoa học quân sự Việt Nam.
Chương XIII: “Tư tưởng Hồ Chí Minh, đỉnh cao cùa văn hóa dân tộc”, nhằm xây dựng cơ sở cho “nhân cách luận cách mạng” mà người viết cho lá cống hiến tư tưởng của Bác và cơ sở để tiến hành tiêp xúc văn hóa trong giai đoạn hậu công nghiệp.
Chương XIV: “Tiếp xúc văn hóa Việt – Pháp”, giới thiệu cách nhìn vàn hóa học đối với văn học.
Phần IV: “Bảo vệ và phát huy văn hóa”, nhằm mục đích giới thiệu cách làm việc má theo tác giả lả có lợi để bảo vệ vàn hóa XHCN. Nó gồm 2 chương;
Chương XV: “Cách phát huy văn hóa trong cuộc tiếp xúc văn hóa hiện nay”.
Chương XVI: “ưu thế của vân hóa Việt Nam trong giai đoạn kinh tế thị trường”.
Công trình này là sự tiếp tục công trình “Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới” để mở đường cho những công trình tiếp theo về tiếp xúc văn hóa Việt – Hoa, tiếp xúc văn hóa Việt – Pháp sẽ xuất bản.
Từng chương một đều có tính độc lập riêng và có thể đọc riêng. Do đó, người đọc không khỏi nhìn thấy có những điều lặp lại. Trong hoàn cảnh một khoa học trên đường hình thành, điều này là không tránh khỏi. Khi hệ thống khái niệm cơ bản còn chưa được chấp nhận, bắt buộc phải lặp lại nội dung một vài khái niệm để cho việc đọc dễ dàng.
Mọi bài viết của tôi dù dài hay ngắn đều hết sức giản dị. Nó chỉ có hai chữ Thức nhận (prise de conscience) và Thao tác (opération). Hai chữ này xét theo quan điểm bình luận, cuối cùng chỉ rút ve có một chữ: lựa chọn. Đây là cách lựa chọn của cá nhân người viết.
Thực tình, các bài viết này lúc đẩu chỉ cốt viết ra để trả lời những băn khoăn của người viết, mà không có tham vọng công bố. Trong hoàn cảnh mở cửa, thấy những băn khoăn của mình cũng là băn khoăn chung của thế hệ người viết, thế hệ hiện nay trên dưới 70, cho nên chúng tôi mạnh dạn công bố. Người viết là một người tự học trong những hoàn cảnh việc tự học không dễ. Trong hoàn cảnh khó tiếp thu những hiểu biết từ ngoài, tôi bó hẹp vào việc tìm hiểu chính mình cho chu đáo, rồi kiểm tra chính mình qua những thay đổi trong cuộc sống, những tài liệu triết học, dân tộc học, nhân loại học, ngôn ngữ học để hiểu “tại sao” tôi có những cảm nghĩ không giống như điêu các nhả học giả đã viêt. Là người thất học, tôi biết dù cố gắng đến đâu, công trình chắc chắn có nhiều thiếu sót. Tôi chỉ hi vọng những cố gắng tìm hiểu chính mình khá nghiêm túc suốt một đời sẽ giúp các bạn hiểu được chính các bạn.