Về phần ta thì cứ ba năm lại phải cử người đi sứ một lần, Nhà vua cử Trạng đi. Trạng Ăn, Trạng Vật, Trạng Cờ cùng đi theo.
Tới Nam Quan, quân canh không mở cửa, một lát đem ra một cái biển có viết chữ thập, lấy tay chỉ đông chỉ tây Trạng bực mình quay lại bảo viên phó sứ :
– Nó muốn dọc ngang thì khoanh cho nó một cái vòng tròn.
Thấy cái vòng tròn, quan cỏi ải giật mình nghĩ bụng: Ta ý muốn nói “tung hoàng vũ trụ”, thế mà sứ An Nam biết đối lại là “bao quát càn khôn”. Giỏi thật !”
Qua cửa ải rồi, đến một quãng đồng bát ngát, trông thấy một ả con gái đương vạch quần đái, Trạng bảo viên phó sứ:
– Kìa quan lớn xem: “Nong tay chí bẹn đỏ hân hân”.
Viên phó sứ nghễnh ngãng chép ra.
“Ðông Tây chí biện đổ hân hân”.
Khi đến Yên Kinh, quan sở tại ra đón vào rồi viết một vế câu đối. “Nam Bắc lai triều đố tể tể” rồi xin sứ đối cho. Trạng quay lại bảo viên phó sứ cứ giơ cái giấy biên lúc nãy đọc lên. Viên phó sứ đọc: “Ðông Tây chí biện đổ hân hân”.
Quan Tàu thấy thế, phục sứ An Nam thần thông, có tài biết trước, trong bụng kinh phục lắm, khoản đãi rất trọng hậu.
Một hôm, Vua Tàu cùng các sứ dạo vườn ngự đầy hoa thơm cỏ lạ, dưới có hồ bán nguyệt, trên hồ có đình bác giác bốn bề bỏ trống giữa đình treo hai chữ ngự thi, đó là “trùng nhị”. Vua Tàu hỏi sứ có biết đó là ý gì không. Trạng vô tình ứng khẩu đọc ngay “Phong nguyệt vô biên”.
Vua Tàu có ý tả cái đình này gió trăng vẫn không tường. Thấy Trạng ứng khẩu nhanh nhẹn và hiểu được hai chữ ấy, khen mãi, phán rằng:
– Ừ, sứ An Nam thực là thông minh có một, đáng tài Trạng. Ngạn ngữ nói: Nhất Cao Ly, nhì Nam Việt. Bây giờ xem thế thời Nam Việt là nhất.
Tháng năm năm ấy, trời không mưa, vua Tàu yêu cầu sứ ta lập đàn cầu mưa, Trạng nhận lời nhưng lo lắm vì không biến cầu bảo cách nào cho có mưa. Chợt nhớ tục bên ta thường bảo khi nào cỏ gà lốm đốm trắng và rễ si nhú mầm là trời sắp mưa. Trạng bèn bảo lập một cái chòi cao, trên dán la liệt các thứ bùa, các thứ bát quái, các vị sao, các vị thần ra trợ, một mặt sai người đi xem hễ thấy cỏ gà lốm đốm trắng và rễ si nhú mầm thì về bảo ngay.
Vài hôm sau có người về báo tin cỏ gà lốm đốm trắng và rễ si nhú mầm rồi. Trạng lên đài xõa tóc chống gươm bài quyết rồi đọc một tràng toàn những tiếng lóng lái heo, ai nghe cũng không hiểu mô tê gì cả như mộc tinh, thâm tinh cổ tinh, kẹo tinh, chó… tinh rồi kết cục bằng loạt linh tinh beng, linh tinh beng ma, linh tinh quỷ… Ðoạn cầm một bình nước lấy mỗi cành lá vẩy lên trời, hét ba tiếng khóc ba tiếng. Lễ chưa xong thì sấm sét ù, mưa xuống như trút. Vua Tàu và các quan Tàu khiếp sợ và cho rằng gia cát Vũ Hầu ngày xưa cũng chỉ giỏi đến thế là cùng!
Hết hạn đi sứ, Trạng được về nhưng vì phục tài của Trạng, Vua Tàu liền lưu Trạng ở lại để dạy Hoàng tử. Trạng bèn sai lập một cái chòi thật cao, bắt Hoàng tử phải trèo lên. Vì sung sướng quen thân, Hoàng Tử mệt muốn chết, trèo lên tới lầu thì thở hồng hộc.
Trạng hét mắng, dặn Hoàng Tử sao không chào thầy lại đứng thở như bò. Như thế là hỗn, “tiên học lễ nhi hậu học văn”. Trạng sai nẹt hoàng tử ra đánh, đánh rồi mắng, mắng rồi lại đánh, không dạy một chữ nào.
Thấy thầy dữ đòn quá. Hoàng hậu đành phải nói với vua Tàu xin để cho Trạng về kẻo “sứ An Nam nhớ nước nhớ nhà, cáu kỉnh đánh con mình có khi chết mất”.
Thế là Trạng thành công trong việc thiết mưu lập kế để được vua Tàu cho về nước.