Thông thường, mỗi khi giao xong sữa cho trạm thu mua ở đường Nguyễn Kiệm, hắn vẫn theo đường vòng qua hẻm nhựa phía trên để về nhà, nhưng hôm nay, chiếc xe Sác cổ lỗ sĩ đang chạy ngon trớn bỗng nhiên tịt máy, lúc qua chợ Hạnh Thông Tây, loay hoay chữa mãi không nổ, trời mỗi lúc một tối, đường mỗi lúc một vắng, buộc phải dắt xe, chính vì vậy, lúc rẽ về nhà, hắn chọn con hẻm dưới, đường đất đỏ, là đường tắt cho gần. Hẻm dưới không có số, không có tên, được tạo nên bởi những xe chở rác từ thành phố đi tắt vào vùng ruộng của những người trồng hoa, lâu dần thành đường. Dân ở đây quen miệng gọi là hẻm Rác. Chính con đường này mới vào cổng trước nhà hắn, nói đúng hơn là cổng trước trại bò nhà anh em hắn, mà mấy chục năm qua, dân trong vùng quen gọi là trại bò ông Hai Rỡ (tên cha hắn). Do đường thường xuyên bị xe rác cày nát thành những rãnh, những ổ gà nham nhở, về mùa mưa thì lầy lội, mùa khô thì bụi rác, bụi đất cuốn mù nên hắn cũng như mọi người trong nhà quen dần với việc đi lại bằng lối cổng sau vườn nhà qua con hẻm phía trên, vốn cũng là đường đất, ba năm trước, Nhà nước cao hứng cho trải nhựa chỉ vì trại bò là kiểu mẫu tổ chức chăn nuôi gia đình, để đón mấy quan khách của cơ quan Nông nghiệp Liên hiệp quốc đến tham quan.
Hắn bước thấp bước cao giữa hẻm Rác tối thui. Những rặng tre tàu um tùm hai bên đường khiến con đường thăm thẳm, hun hút, tách biệt hẳn với vùng ánh điện ngoài đường phố. Hắn gần như đi mò. Hết rặng tre, con hẻm mở ra vùng vườn tược và ruộng đất, trời quang ra, nhưng sự hoang vắng, cô tịch lại tăng lên bởi khắp nơi inh ỏi tiếng côn trùng; mùi thum thủm uế khí từ bãi rác bên trong theo gió tỏa ra, tạo nên cảm giác rờn rợn. Một vùng đất cặn bã. Một cái gì đó không an toàn. Nhưng đối với hắn, thật bình thường. Hắn thuộc loại cặn bã. Chính vì thế, không khí nào đối với hắn cũng như nhau. Hắn chọn con đường tắt, hôi hám, tối tăm để đi, đơn giản chỉ vì phải dắt xe, nó gần. Thế thôi.
Hắn đi giày vải, nhưng tới đâu khua động tới đó vì sáu cái can nhựa 20 lít, dùng để đựng sữa, rỗng không, buộc toòng teng ở giá chở hàng, sau xe, cứ nhảy cà tưng theo sự gập ghềnh, lồi lõm của con đường.
Càng gần bãi rác, mùi thum thủm chuyển thành mùi hôi thối càng nồng nặc. Những núi rác lù lù lấn cả ra đường. Bắt đầu từ đây là khu trồng hoa, đất rộng phẳng. Mắt hắn quen với bóng tối, đã nhìn được đường đất và cảnh vật trong tầm hai chục mét.
Hắn chợt cảnh giác, dừng lại. Cách hắn không xa, đầu bãi rác, ở lối mòn dẫn vào căn lều trống vẫn dùng làm nơi trú nắng mưa của những người trồng hoa khi vào vụ, lờ mờ hai chiếc xe máy. Ai bỏ quên? Không lẽ đôi trai gái nào dắt nhau vào tận nơi hôi hám này?
Hắn chưa kịp định thần, từ trong lều, bốn bóng đen lao ra. Một thằng trần truồng, tay ôm cái bọc. Chúng chạy đến hai chiếc xe, hấp tấp nổ máy, bật đèn rồ ga lao ngược về phía hắn. Diễn biến nhanh hơn ý nghĩ nên hai quầng sáng vừa làm hắn lóa mắt và hai chấm đỏ đèn hậu cùng tiếng máy của hai chiếc xe mất hút vào rặng tre tàu phía đầu hẻm, hắn mới hết cơn ngơ ngẩn. Hắn không đi tiếp mà dựng xe lại. Trong bọn có một thằng trần truồng nên cái đầu vốn quen nhìn nhận mọi chuyện bình thường của hắn mới nảy ra sự tò mò. Hắn dè dặt bước về phía căn lều kề bên dải ruộng, vào dịp này, sau vụ hoa tết, các luống đất chỉ còn toàn cỏ hoang, cây dại. Trong mùi hôi thối của rác có lẫn mùi xăng nồng. Hắn chưa kịp thận trọng, đã vấp một cái đau điếng, mặt vục vào đống rác. Ngồi dậy, hắn mới biết do mải nhìn về phía lều, không thấy chiếc xe máy bị đổ án ngang đường. Mùi xăng từ bình chứa bị lật nghiêng rò rỉ. Hắn nhận ra chiếc Ba-bét-ta mà bình thường mỗi lần thấy loại xe này chạy trên đường hắn hay nhớ đến câu hát của bọn con nít. Ba-bét-ta vừa la vừa đẩy. Hắn bắt đầu mất bình tĩnh. Nhưng vì sao, hắn chưa rõ hẳn. Có lẽ dây vào thứ đồ đạc vô chủ giữa đêm hôm là chuyện bất thường nên hắn hoang mang. Chứ nếu sợ một vụ án mạng hay một vụ cướp bóc, chắc hắn không dám đi tiếp vào căn lều.
Hắn bỗng cứng lặng. Trên nền đất đầy cỏ rác trong lều là thân thể bất động của một phụ nữ. Nạn nhân nằm ngửa, hai tay buông xuôi, chân co, chân duỗi, mái tóc dài xõa tung. Hắn hoảng sợ. Hắn nghĩ đó là xác chết. Phải rời nhanh khỏi căn lều. Nhưng chân hắn phát run. Phải vịn vào cây cột lều, hắn mới đứng vững. Vào cái khoảnh khắc đứng để trấn tĩnh đó, mắt hắn bơ vơ lạc về phía nạn nhân.
Căn lều vốn nhỏ, mỗi chiều chừng ba mét, dựng sơ sài, bốn bề bỏ trống, chỉ một lúc sau khi quen mắt, hắn đã nhận ra nạn nhân còn trẻ, đôi chân dài thuôn và lẳn. Mắt hắn bần thần khá lâu ở phần dưới bụng nàng, nơi mà sự lờ mờ của bóng đêm chỉ cho phép hắn nhận ra một vùng tối huyền bí trên nền trắng nhễ nhại của da thịt… Hắn đã ba mươi hai tuổi mà chưa một lần được thấy những vùng đất cấm của đàn bà. Mắt hắn lờ đờ như bị kéo màng… Càng nhìn, càng như háo nước, song hắn cũng càng áy náy, bất an về hành vi của mình. Không đủ can đảm đứng lâu hơn, hắn rời mắt khỏi gương mặt mờ nhòa của nàng, loạng choạng quay ra. Đi được mấy bước, sự tiếc rẻ lại quậy lên. Sẽ chẳng bao giờ có dịp nào được nhìn người đàn bà thấu đáo đến thế, tuyệt diệu đến thế. Đời hắn, cuộc đời loại dưới đáy, đến chết cũng độc thân bên đàn bò, ngập đầu trong bao nhiêu khinh miệt, rẻ rúng của người xung quanh, sẽ chẳng bao giờ có dịp biết kỹ hơn về đàn bà… Thế là hắn quay lại, lảo đảo.