Cha và Mẹ, đó là tiếng chúng ta nói hàng ngày nhưng ít ai để ý đến sự thiêng liêng, sự đằm thắm và tình cảm sâu nặng ẩn chứa trong hai tiếng ấy…
Một người bạn kể: “Hồi còn chiến tranh, trong một trận truy quét tôi nhìn thấy kẻ địch tháo chạy phía trước, trên một lối mòn. Tôi bắn đuổi theo, hắn bỏ lối mòn chạy băng vào một vùng gò đống. Nhưng đó là một bãi mìn. Tiếng nổ bùng lên. Và tôi nghe tiếng la của hắn: “Chết con rồi, cha mẹ ơi!”. Rồi im lặng. Tôi hiểu đó là tiếng gọi cuối cùng của một con người. Tiếng gọi ấy suốt đời làm tôi ray rứt”
Một người bạn khác của tôi ngụ trên lầu bảy một cao ốc. Vợ anh vừa sinh đứa con đầu lòng và anh phải nhờ mẹ từ dưới quê lên giữ con giúp. Mỗi chiều đi làm về, ngang qua đó, ngước lên lầu bảy tôi đều nhìn thấy người mẹ già còm cõi kia bồng đứa cháu nội đi qua đi lại nơi hành lang trên tầng cao chót vót. Hành lang đó hẹp như cái lồng chim. Và người mẹ suốt ngày cứ luẩn quẩn trong cái không gian buồn thảm ấy.
Ðó là hình ảnh xót xa nhất về người mẹ.
Và những người già bán vé số, bán kẹo cao su trong các quán ăn?
Và những bà lão ăn xin trên hè phố?
Ðó cũng là những người mẹ. Nhưng con của mẹ đâu?
Có bông hồng nào dành cho những người mẹ ấy không?
*
Tôi cũng đã không có bông hồng nào dành cho mẹ tôi.
Lúc ấy chiến tranh đã đưa tôi đi rất xa. Khi tôi trở về bước vào căn nhà của mẹ, thấy hoàn toàn im lặng. Tôi đi từ nhà trước ra nhà sau, không một bóng người. Ðến khi tôi đẩy cửa bước vô căn buồng nhỏ nơi mẹ tôi thường nằm thì nghe có mùi gì rất lạ. Căn buồng tối quá, tôi phải mở cánh cửa nhỏ mới nhìn rõ được mọi thứ trong đó. Chiếc giường nhỏ kê sát vách không có ai nằm. Một chiếc gối nhỏ và chiếc mền cũ màu xám tro. Tôi đến bên giường, vừa đặt tay lên gối thì một đám bụi bốc lên. Trên chiếu lờ mờ hiện lên những vật gì màu nâu. Tôi cúi xuống. Các bạn có biết đó là cái gì không? Ðó là phân người. Trong những ngày cuối đời mẹ tôi đã già yếu đến độ không còn kiểm soát được việc đi tiêu đi tiểu của mình. Vậy mà bà vẫn sống thui thủi như thế với ngọn đèn dầu hiu hắt từng đêm, với những con thằn lằn hiền lành thường mon men đến gần xin vài hột cơm đổ.
Những người hàng xóm kể lại rằng khi bà đi xuống bếp lục cơm nguội ra ăn, với tay lấy chai nước mắm chan vô chén cơm, hóa ra đó là chai dầu lửa. Bà nhai miếng cơm trộn trạo trong miệng một lúc mới nghe được mùi hôi và ói ra đầy giường.
Xế chiều buồn quá bà ngồi dậy quơ lấy cây gậy tre, từng bước chống đi, dò dẫm đến những nhà quen ở đầu chợ. Có lần tôi đi tìm bà nhưng bà cũng không nhận ra tôi nữa. Lúc tôi chạy đến ôm bà, bà mới nhận ra hơi hướng của tôi. Bà sờ lên đầu lên mặt tôi và hỏi:
– Nguyễn đấy hả?
– Con đây mẹ ơi, sao mẹ đến nỗi này?
Thế là bà khóc. Tôi cũng khóc. Buổi chiều đó tôi cõng mẹ tôi từ ngoài chợ về nhà. Những người trong làng đổ xô ra xem, xem đứa con lưu lạc cắp cây gậy tre trong nách cõng mẹ đi qua thị trấn. Hàng xóm chạy đến giúp tôi dọn dẹp nhà cửa.
Ðó là lần cuối cùng tôi gặp mẹ tôi.
Hết chiến tranh, tôi trở về một lần nữa, và mẹ tôi đã không còn.
Mẹ tôi đã chết mà không có tôi bên cạnh. Mẹ tôi đã nuôi dạy tôi trong suốt bao nhiêu năm dài nhưng cả đời tôi chưa có gì cho mẹ cả dù chỉ là một bông hồng nhỏ bé.
Cha tôi mất năm năm sau đó. Buổi sáng cuối cũng tôi từ Sài Gòn về quê thăm ông, hai cha con ngồi bên bếp lửa nhỏ. Sáng mùa đông ở miền Trung trời rất lạnh, ông trùm đầu bằng một chiếc khăn lông màu trắng đã cũ, ông nhắc lại những kỷ niệm về mẹ tôi, về ông nội tôi, về những trận lũ lụt tràn qua làng. Tôi ngồi nghe, thương ông già yếu nhưng trong đầu tôi không hề có ý nghĩ rằng đó là buổi gặp gỡ cuối cùng. Hôm trở về tôi mang tặng cha một chai rượu. Một người bạn nói đó là rượu nho do người nhà cô cất. Hồi đó nhu yếu phẩm rất hiếm nên có được chai rượu làm quà, tôi rất mừng. Cha tôi nói để khui ra uống thử. Chỉ là một chai nước lã có màu.