Mặt trời chen lặn, ngọn gió lao rao. Dọc theo đường Cái-Tắc đi Long-Mỹ, lúa gần chín, nên trông ra ruộng có đám ửng vàng, có đám còn xanh lét.
Ngang mấy xóm, người ta thừa hứng cái cảnh trời chiều mát-mẻ, nên lăng-xăng ngoài đường, người thì chấp tay sau đít, bước chẫm-rãi, mắt ngó mông vô đồng; kẻ thì ngồi dựa bên lề, mặt tươi cười, miệng nhai nhóc-nhách; khúc thì dụm năm dụm ba hỏi nhau lúa trúng ước mấy giạ một công; chỗ thì con gái con trai trửng-giởn chạy tứ tung, nói cười inh-ỏi.
Cái cảnh vui-vẻ dường ấy, con người thảnh thơi dường ấy, mà sao trước nhà của ông Hội-Ðồng Lê-Tấn-Thành, cũng ở dựa bên khúc lộ nầy, lại vắng-hoe, trong nhà lặng-lẽ, ngoài ngõ im-lìm. Hàng rào dưới xây gạch, trên song sắt, chạy dọc theo đường bị cỏ mọc che khuất nhiều khúc, coi chẳng khác rào hư. Cái cửa ngõ sắt, một cánh mở hé, còn một cánh thì khép hoài, nên chốt bị sét đóng, xô mở không nổi….
Mặt trời chen lặn, ngọn gió lao rao. Dọc theo đường Cái-Tắc đi Long-Mỹ, lúa gần chín, nên trông ra ruộng có đám ửng vàng, có đám còn xanh lét. Ngang mấy xóm, người ta thừa hứng cái cảnh trời chiều mát-mẻ, nên lăng-xăng ngoài đường, người thì chấp tay sau đít, bước chẫm-rãi, mắt ngó mông vô đồng; kẻ thì ngồi dựa bên lề, mặt tươi cười, miệng nhai nhóc-nhách; khúc thì dụm năm dụm ba hỏi nhau lúa trúng ước mấy giạ một công; chỗ thì con gái con trai trửng-giởn chạy tứ tung, nói cười inh-ỏi.
Cái cảnh vui-vẻ dường ấy, con người thảnh thơi dường ấy, mà sao trước nhà của ông Hội-Ðồng Lê-Tấn-Thành, cũng ở dựa bên khúc lộ nầy, lại vắng-hoe, trong nhà lặng-lẽ, ngoài ngõ im-lìm. Hàng rào dưới xây gạch, trên song sắt, chạy dọc theo đường bị cỏ mọc che khuất nhiều khúc, coi chẳng khác rào hư. Cái cửa ngõ sắt, một cánh mở hé, còn một cánh thì khép hoài, nên chốt bị sét đóng, xô mở không nổi.
Trong sân thì kiểng vật ê-hề, nhưng mà mấy hàng cây tây trồng dài theo đường đi, không săn sóc, không tỉa nhánh sửa lá, nên bụi rặm-rịt tàn lan, bụi ngã xiên ngã xó. Mấy chậu kiểng không tưới nước, không bắt sâu, nên chậu nứt đất bày rễ, chậu rụng lá khô gốc.
Cái nhà rộng lớn đò-sộ, giá cất đến bạc muôn, mà cửa đóng bì-bịt, thềm đầy lá khô, trông ra thì đã biết đã lâu rồi chủ nhà không tiếp khách. Thình-lình có một cái xe hơi thùng kiếng còn mới tinh, ở Long-Mỹ chạy ra đậu ngay cửa ngõ ông Hội-Ðồng Thành. Anh sớp-phơ mặc đồ tây vàng, đội kết vàng, đi giày trắng, nhảy xuống mở cửa xe rồi đứng nép một bên, bộ cung kỉnh người đi xe lắm. Trên xe thủng-thẳng bước xuống một cô, mặc áo quần lụa màu trứng gà, đầu choàng khăn sạt cũng màu trứng gà, vai mang cái choàng tơ màu xám thiếc. Cô trạc chừng 30 tuổi, gương mặt tròn-trịa, nước da trắng trong, má bầu mà lại ửng hồng, mài vòng nguyệt mà lại nhỏ rức, răng trắng mà khít rịt, môi mỏng mà đỏ au, miệng vui vẻ tươi cười, mắt long-lanh chói sáng. Bước xuống xe rồi, cô thủng-thẳng lột cái choàng mà liệng vào xe, mùi dầu thơm bay ngọt-ngào. Con tỳ-nữ còn trong xe, chụp lấy cái choàng ngồi mà xếp. Cô đứng ngó vô cửa mà nói rằng: “Phải cái nhà nầy rồi, mà thế chủ nhà đi khỏi hay sao nên cửa đóng bì-bịt vậy kìa? Trong a! Xách cái bồp đi vô đây với cô”. Con tỳ-nữ ôm một cáp bốp da lớn leo xuống xe mà đi theo.
Cô mỹ-nữ nầy bước vô sân, thấy kiểng-vật tiều-tụy, đường-sá bịt bùng, cảnh xem vắng-hoe lòng bắt ái-ngại. Cô thủng-thẳng đi dọc theo chái nhà mà vòng vô phía sau. Có hai con chó vàng nằm lim-dim tại cửa sau, thấy dạng khách lạ thì tuôn ra mà sủa. Một ông già ở trần, lưng đen trạy, ăn trầu, miệng bô-bô, bước ra la chó. Cô mỹ-nữ hỏi có ông bà Hội-Ðồng ở nhà hay không, thì ông già đáp rằng: “Thưa, có một mình bà tôi ở nhà. Ông tôi ở trên Sài-gòn”.
Cô mỹ-nữ theo ông già mà vô nhà sau, rồi bắt đó đi thẳng ra nhà lớn. Cô vừa bước chơn lên thềm thì la lớn rằng: “Bà Hội-Ðồng ở đâu? Có khách xa tới xin cơm đây nè”. Cô vừa bước vô và nói và cười ngất,
Bà Hội-Ðồng đương nằm tại bộ ván dựa cửa, bà giựt mình lồm-cồm ngồi dậy. Cô gái lớn của bà là cô Kim-Lang, 14 tuổi, ngồi thêu một bên đó, cũng buông cây kim, ngước mặt lên ngó. Bà Hội-Ðồng vùng la: “Ủa, cô tư! Vậy mà tôi tưởng là ai đâu chớ! Cô đi đâu xuống tới dưới nầy? Mạnh giỏi há?”. Cô mỹ-nữ ấy cười mà đáp rằng: “Ờ, tôi xuống thăm chị, chớ đi đâu. Tôi mạnh giỏi luôn-luôn. Còn chị làm giống gì mà ốm dữ vậy? Chị đau hay sao?
Anh Hội-Ðồng đi đâu mà đóng cửa bì-bịt vậy?” Bà Hội-Ðồng nghe hỏi tới chồng, thì đổi sắc, bộ buồn-bực lắm và thở ra mà nói: “Từ hồi làm Hội-Ðồng tới giờ, cứ đeo ở trên Sài-gòn hoài, có ở nhà đâu”.
Bà Hội-Ðồng tên là Kim-Diệp, năm nay được 35 tuổi. Hồi còn xuân-xanh, bà là một gái vừa có sắc, vừa có hạnh, mà lại cha mẹ có tiền nhiều, bởi vậy những con nhà giàu, những người có học-thức, ai cũng trầm-trồ gấm-ghé. Lúc nhỏ cô Kim-Diệp học tại Nhà Trắng Sài-gòn, tới 19 tuổi mới thôi học mà lấy chồng. Cô ở với ông Hội-Ðồng Lê-Tấn-Thành có ba đứa con, một đứa con gáî tên Kim-Lang, 14 tuổi, đứa con trai tên Tấn-Ðức, 10 tuổi và một đứa con gái út tên Kim-Cúc, mới 4 tuổi.