Mới 6 giờ sáng mà trên hè phố tiếng giày guốc đã khua vang, báo hiệu ngày tựu trường đã tới. Hai tháng hè trôi qua mau chóng quá! Từng đoàn học-sinh lũ lượt đi, tay sách cặp, miệng bi-bô kể chuyện. Tôi vội chải đầu, thay bộ quần áo mới rồi gọi em cắp sách cùng theo mẹ đến trường.
Tuy chân bước đi mà lòng tôi vẫn ngổn ngang trăm nỗi. Phần còn luyến tiếc những cảnh trăng nước đồng quê trong những ngày hè vui thú, phần hân hoan được gặp thầy, gặp bạn, lại pha nỗi lo âu, sợ lên lớp trên học khó.
Cứ thế, tôi dắt em, chân bước theo mẹ, óc đầy ý nghĩ vẩn vơ, rời đến cửa trường lúc nào không biết.
Quang cảnh trường học hiện ra náo nhiệt lạ thường!
Hàng quà, hàng bánh, nước mía, mực khô… không biết kéo đến tụ họp tự lúc nào, mà đũ cả, khiến cho đông lại thêm đông. Chỉ khổ cho bác gác trường! Mọi ngày đối với lũ trò nhỏ „oai vệ“ là thế, mà hôm nay, thêm người cảnh binh giúp sức, bác cũng phải luôn mồm hò hét, rát cổ bỏng họng, mới giữ nỗi trật tự lối ra vào.
Sắp sửa tiến qua cổng trường, tôi bỗng thấy có bàn tay vỗ nhẹ vào vai. Tôi ngảnh lại. Cô giáo cũ lớp Năm âu-yếm nhìn tôi mà bảo:
– Năm nay Dũng học trên gác rồi nhỉ? Thế là cô lại không trông thấy Dũng qua cửa lớp cô nữa. Dũng chưa quên cô đấy chứ?
Tôi chẳng biết nói gì, chỉ nhìn cô mà lòng se lại. Mẹ tôi vội nói đỡ:
– Hôm nào rỗi mời cô lại chơi. Cháu vẫn nhắc đến cô luôn đấy ạ.
Cô mỉm cười, hứa hôm nào lại thăm mẹ tôi, véo má em Huyền, rồi lanh lẹn bước vào cổng trường. Trong sân, túm năm, túm ba, đủ các hạng người. Đây, một bà sang trọng dắt cậu con, mới từ đầu đến chân; kia một cụ già, tuy đứng dưới bóng cây mà vẫn chịu khó che ô cho cháu; nọ, một ông cúi xuống vỗ về cậu con trai, trông mặt mũi sáng sủa đáo để mà mồm cứ mếu sệch đi, định khóc.
Tôi đưa mắt nhìn ngôi trường sừng sững trước mặt: tường vôi mới quét, thềm gạch sạch bong, như hớn hở chào mừng chúng tôi, những người bạn cũ đã trở về. Trông thấy những nếp nhà rộng lớn mà suốt bốn năm trời dòng dã, tôi hằng ngày lui tới học hành, lòng tôi, bỗng rộn lên một niềm vui chan chứa. Bao nhiêu miễn cưỡng lo âu bỗng tiêu tán đâu mất cả!
Tôi hoan hỷ đưa mắt nhìn theo các bạn cũ của tôi đang tung tăng chạy nhẩy khắp sân. Bác nào trông cũng lớn hẳn lên. Có bác đen như củ súng, cơ hồ cháy nắng. Chả bù cho mấy chú „lính mới“, nét mặt ngơ ngác sợ sệt, cứ túm chặt lấy áo mẹ, nước mắt vòng quanh.
Vừa lúc ấy, ông Hiệu-Trưởng đi tới. Trông ông vẫn thế. Chỉ có bộ ria trắng bạc hơn năm ngoái ít nhiều. Thấy bóng ông ra, các bà các cô vây tròn lấy ông, vẻ mặt giận hờn vì không còn chỗ học cho con, cho cháu. Song ông vẫn tươi cười, an ủi người nầy, cắt nghĩa cho người kia, giải thích những trường hợp không đúng với lệ của trường.
Nhưng một hồi chuông đã nổi lên… Các thầy giáo, các cô giáo cầm bản danh sách học sinh, đứng ra cửa lớp gọi tên.
Em Huyền tôi được vào lớp mẫu giáo của cô Đào. Còn tôi học lớp Nhất A của thầy Bích trên gác. Ngồi an vị rồi, tôi đưa mắt nhìn chung quanh.
Lớp học cũng chẳng khác lớp Nhì năm ngoái. Nhưng tôi tưởng như lạ hơn nhiều: căn phòng như rộng hơn, tấm bảng đen như lớn hơn; đến cái tranh bộ xương người, tôi coi cũng rắc rối hơn bức tranh học năm ngoái.
Mới cách đây có một phút đồng-hồ, mà tôi có cảm giác như mình nhớn hẳn lên và cũng quan trọng hẳn lên! Chả gì cũng là học sinh lớ Nhất rồi cơ mà! Mà lớp Nhất, thì cái gì cũng phải nhất chứ: lớn nhất, giỏi nhất, đàn anh nhất… mà học cũng khó nhất. Thế rồi tôi bất giác giật mình lo sợ. Còn đang lan man nghĩ ngợi, tôi thấy có tiếng gọi khẽ đàng sau. Tôi quay lại. Đó là anh Sinh, anh bạn bao giờ cũng ngồi đầu lớp, đang nháy tôi ra hiệu.