Tôi đặt bó huệ lên mộ Phương và yên lặng nhìn anh. Tôi im lặng rất lâu như thế, như muốn hòa mình vào sự yên lặng rờn rợn của vùng mộ địa. Nụ cười của người đã khuất vĩnh viễn còn trên bức ảnh nhỏ gắn vào bia thập giá. Đôi mắt Phương hiền và mang một vẻ gì lãng mạng. Tôi yêu đôi mắt đó. Và bây giờ, vĩnh viễn mất Phương rồi, hình bóng anh vẫn không nhạt nhòa trong tâm tư tôi dù đã ba năm anh giã từ cuộc sống.
Một nỗi bơ vơ đột nhiên xâm chiếm tâm hồn tôi. Gió nghĩa trang về chiều lành lạnh, tôi quấn vội tấm khăn voan lên cổ và khép hai vạt áo dài đang vướng chân vì gió. Hoàng hôn đến chầm chậm, buồn vương lên những tấm bia sừng sững đánh dấu những cuộc đời đã đi vào thiên thu.
Tôi có cảm tưởng như có người đang nhìn mình chăm chú. Tôi quay lại và bắt gặp sự ngượng ngùng của người lính đang đứng cách vài ngôi mộ. Có lẽ anh ta đi thăm bạn đồng ngũ.
Những cành huệ trắng nuột theo tay tôi sắp thành hai chữ “Nhất Phương” trên thành mộ. Tôi hơi bối rối vì thiếu những bông hoa để hoàn thành mẫu tự cuối cùng. Nhìn quanh cũng chả mộ ai có hoa huệ để có thể xin năm cánh, tôi nhìn lại phía sau. Người lính vẫn còn ở đó … Và tôi sửng sốt nhận ra hắn cũng đang cắm cúi sắp những hoa huệ lên mộ bạn. Thoáng một giây ngần ngại, tôi bước về phía hắn. Người lính ngước nhìn tôi và trước khi tôi kịp nói, hắn đã hỏi:
– Cô cần những hoa huệ để sắp tiếp phải không ?
Tôi bối rối gật đầu.
– Vâng, tôi … còn thiếu mẫu tự chót.
Hắn khẽ cười:
– Ý kiến của cô hay đấy. Dùng hoa viết tên người đã khuất lên thành mộ
… Tôi đang bắt chước cô đó.
Tôi nhìn lên thành mộ, những hoa huệ được sắp thành ba chữ “Nhớ Vũ Linh” rất khéo. Trên tấm bia thập giá có một bức ảnh nhỏ, gương mặt người trong ảnh khắc khổ, tuy nhiên những nét thư sinh chưa thể xóa hết trên đôi mắt đầy mơ mộng của anh ta. Dưới bức ảnh là hàng chữ nhỏ:
‘‘ Thiếu úy Vũ Linh.
Đền nợ nước ngày 18-6-67
hưởng dương 24 tuổi ’’.