Sau này tôi được biết trường Đại học Montpellier là một trường nổi tiếng được thành lập từ năm 1222. Năm 1970, Đại học Montpellier chia thành 3 trường tách biệt, trường Montpellier III tiếp nhận cả sinh viên nước ngoài đến học về ngôn ngữ và văn chương Pháp, được mang tên văn hào Pháp Paul Valéry người đã từng học tại Montpellier và cũng là người có kỷ niệm sâu sắc với cha tôi.
Theo ông Nguyễn Mạnh Tường kể lại thì thời bấy giờ sinh viên Việt Nam sang Pháp học thường tập trung 2 nơi: Aix-en-Provence và Montpellier. Là vùng miền Nam nước Pháp, nơi có mặt trời mọc quanh năm. Thành phần sinh viên thì phức tạp về nguồn gốc xã hội. Đa phần cha ông họ là điền chủ Miền Nam. Có ít sinh viên ngoài Bắc. Những sinh viên gốc tư sản càng ít, có cả loại xuất thân từ các tầng lớp tiểu tư sản thành thị viên chức nhỏ, tiểu thương cũng bóp bụng cho con đi du học. Đời sống của hai anh em Huyên, Hưởng cũng như ông Tường thuộc loại học trò nghèo mà từ cổ kim ta vẫn có.
Nhờ ông Darius giúp, hai anh em thuê nhà một bà goá, vợ một nha sĩ có máy ép răng. Lúc chú Hưởng và cha tôi ở đó thì bà còn ở cùng cô con gái và cậu con trai Robert Nicolas Delous mới 4 – 5 tuổi. Tấm ảnh cha tôi chụp với Nicolas vẫn còn giữ được. Chú Hưởng và cha tôi khi mới sang Pháp không có Pa-đờ-suy (tức là áo dạ dài mặc vào mùa đông) chỉ có chiếc áo gió khoác ngoài. Mãi sau bà tôi gửi cho hai anh em mỗi người một chiếc áo dài bông thì mới thấy ấm áp. Sang Pháp thì chỉ chúi mũi vào mà học, ngoài giờ nghe giảng ở trường hai anh em còn đi nghe giáo sư giảng thêm các buổi tối những môn học mà chú Hưởng gọi là “hóc búa lắm”. Chú còn nhớ: “Hồi mới sang Pháp chiều ăn ở nhà hàng rẻ tiền, có cô phục vụ ngạc nhiên thấy 10 ngày rồi mà món ăn của hai anh em vẫn không thay đổi, vì tiền nhà gửi sang chẳng là bao nhiêu, nên không dám phí phạm. Số anh em con nhà giầu nhận tiền gửi sang, khi có tiền thì tiêu phí cùng các cô đầm, ăn một tuần là hết, ba tuần ăn bánh mì khô. Nhiều người ho lao là vì vậy. Tuy thế không phải tất cả đều như vậy. Có ông Nguyễn Bá Húc, rất giỏi toán bị ho lao ra máu nhiều lắm, chú đã chăm sóc mà không sợ lây. Sau này khi về nước gặp lại nhau, ông Nguyễn Bá Húc cũng đã nhắc về tình bạn đó. Thỉnh thoảng hai anh em lại nhận được quà của bà nội tôi gửi sang. Đó là những bao bì bằng chiếc hộp bánh biscuit ở trong đựng lạp sườn hoặc ruốc. Anh Chính kể rằng mỗi lần bà mua hộp sắt bao bì rồi đóng gói bà lại nhờ bác cả Đắc đem đi phố Hàng Thiếc hàn kín rồi gửi cho hai chú. Suốt mấy năm học, mỗi người lúc nào cũng chỉ có hai bộ quần áo và một đôi giầy. Dù đi họp, đi học, đi chơi cũng chỉ một đôi, khi nào mòn vẹt, rách mới mua đôi khác. Năm 1930, lên Paris học thì ở ngay Trung tâm tại phố Pooc-vai- ăng, tiền nhà đắt quá phải chuyển ra ở ngoại ô. Bấy giờ kinh tế khủng khoảng, 1 Franc ở nhà bà nội có thể mua được 3 – 4 tạ gạo. Rồi chú nhấn mạnh: “Vì vậy mà anh em bảo nhau phải cố mà học khỏi phụ công mẹ nuôi dưỡng”. Bà không còn kham nổi nên đã điện sang báo tin bị ốm và chú Hưởng phải trở về sau khi nhận bằng Cử nhân Luật vào năm 1932, còn cha tôi thì tự kiếm sống để tiếp tục học lên…