Phạm Công Thiện, được xem như một triết gia Việt Nam thần đồng, và thiên tài, như ông đã tự nhận: Tôi thực sự bắt đầu viết quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học vào năm 1960 (thực sự khởi từ năm 1959), nghĩa là lúc tôi được mười tám và mười chín tuổi.
Bây giờ tôi gần 30 tuổi. Bao nhiêu nước chảy trôi phăng qua cầu trong mười năm trời. Bây giờ nhìn lại chặng đường xưa, tôi không ngờ lúc 18 – 19 tuổi tôi lại thông minh dễ thương như vậy, rồi nhớ lại lúc 13-14 tuổi cho đến lúc 16 tuổi, tôi đã xuất bản một quyển, sách về ngôn ngữ học và đã viết trên 20 quyển sách về văn học quốc tế và ngôn ngữ học (trong đó có một quyển mà Nguyễn Hiến Lê đề tựa giới thiệu và ngạc nhiên không ngờ tôi mới 16 tuổi), sau này khi tôi được 18 tuổi thì tôi đốt sạch hết tất 20 quyển ấy!
Tai nạn lớn lao nhất trong đời tôi là phải chịu đoạ đầy làm thần đồng lúc còn thơ dại, rồi lúc lớn lên làm thanh niên thì phải chịu đoạ đầy làm thiên tài.
Về mặt tư tưởng triết học, tôi không dám lạm bàn, nhưng về ngôn ngữ thì quả là thiên tài.Chỉ cần vài tháng, ông có thể học để nghe, nói viết, khá trôi chảy một ngoại ngữ. Kể cả ngôn ngữ khó như tiếng Hán, hoặc rất khó như tiếng Phạn.
Xin giới thiệu các bạn một cuốn sách của ông, được coi là dễ đọc (theo tôi – Quantam).
Phạm Công Thiện sinh ngày 1.6.1941 tại Mỹ Tho. Từ năm 13-16 tuổi đã có bài viết cho tạp chí Bách Khoa, một tờ báo cao cấp trong giới trí thức Sài Gòn: “Nhớ lại lúc 13-14 tuổi cho đến lúc 16 tuổi, tôi đã xuất bản một cuốn sách về ngôn ngữ học và đã viết trên 20 quyển sách về văn học quốc tế và ngôn ngữ học (trong đó có một quyển mà Nguyễn Hiến Lê đề tựa giới thiệu và ngạc nhiên không ngờ tôi mới 16 tuổi)”. (trích Trang mở đầu “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học).
Năm 18 tuổi là giảng viên Viện Đại Học Sài Gòn (bộ môn Triết học).
Cũng trong tuổi 18-19 ông bắt đầu viết tác phẩm “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”, hoàn thành năm 22 tuổi. Nói cho đúng hơn là ông tập hợp những bài viết đã đăng rải rác trên các báo ở Sài Gòn thời bấy giờ và biên tập thêm vài chương mới.
Từ năm 1966-1968, Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả Phân Khoa Viện Ðại Học Vạn Hạnh.
Từ năm 1968-1970, khoa trưởng Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện Ðại Học Vạn Hạnh, sáng lập viên và nguyên chủ trương biên tập tạp chí Tư Tưởng của Viện Ðại Học Vạn Hạnh.
Xuất ngoại từ 1970. Từ năm 1970 cho đến 1983, sống ở Do Thái, rồi ở Đức, và ở lâu dài tại Pháp.
Đến năm 1983, trở lại Hoa Kỳ, thành phố Los Angeles.
Hiện định cư tại Hoa Kỳ.
Nguyên là Giáo sư Triết học Tây Phương Viện Ðại Học Toulouse, Pháp Quốc, Giáo sư Phật Giáo Viện College of Buddhist Studies, Los Angeles, Hoa Kỳ.
Tác phẩm đã xuất bản:
– Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, tổ sư Thiền Tông (1964);
– Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965);
– Ngày sinh nhật của Rắn (1967);
– Trời tháng Tư (1966);
– Im lặng hố thẳm (1967);
– Hố thẳm của tư tưởng (1967);
– Mặt trời không bao giờ có thực (1967);
– Bay đi những cơn mưa phùn (1970);
– Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988);
– Sự chuyển động toàn diện của tâm thức trong tư tưởng Phật giáo (1994);
– Triết lý Việt Nam về sự vượt biên (1995);
– Làm thế nào để trở thành một bậc Bồ Tát;
– Sáng rực khắp bốn phương trời (1998);
– Tinh tuý trong sáng của đạo lý Phật giáo (1998);
– Trên tất cả đỉnh cao là im lặng;
– Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử;
– Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu: Triết học là gì?;
– Ðối mặt với 1000 năm cô đơn của Nietzche.
Ngoài ra năm 1996, ông còn viết cuốn “Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc – Triết lý Việt Nam về chữ “Lòng” và chữ “Tơ”, mà tôi không thấy các trang trên mạng nói đến.
Với sự nghiệp như thế, cho nên:
Ông Thiện đã phủ nhận tất cả các triết gia: “Ngay đến Heraclite, Parmenide và Empédocle, bây giờ tao còn xem thường, tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện đại, chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại nhất mà ta đã gặp trong đời sống tâm linh của ta”. Ông coi những nghệ sĩ như Goethe Dante như những thằng hề ngu xuẩn. Ông muốn mửa màu đen trên những người làm văn nghệ ở Paris. Còn về J.P. Sartre và S. de Beauvoir, “nếu họ muốn xin gặp tao, tao sẽ không cho gặp mà còn chửi vào mặt họ”… Về Thiền tông “Tao đã gửi Thiền tông vào một phong bì tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới. Về dạy học, thời gian tao học ở Hoa kỳ, tao đã bỏ học vì tao thấy những trường Đại học mà tao học như Yale, Columbia chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ hơn là họ dạy tao… Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao cũng không nghe theo nữa. Tao chỉ dạy tao. Tao là học trò của tao và chỉ có tao làm thầy cho tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao. Còn các Văn Sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lặp đi lặp lại vô ý thức hay có ý thức: trí thức “mười lăm xu”, ái quốc nhân đạo “ba mươi lăm xu”, triết lý tôn giáo “bốn mươi lăm xu””. (Nguyễn Văn Trung).
Còn Ông Phạm Công Thiện, là cha của Ông Phạm Công Tắc (1890-1959), Hộ Pháp đạo Cao Đài là khác rồi.