Durant sinh tại North Adams, Massachusetts, con của cặp cha mẹ người Pháp và Canada những người đã di cư từ Quebec đến Mỹ. Ông đấu tranh cho việc trả lương công bằng, quyền bầu cử của phụ nữ và các điều kiện làm việc tốt hơn cho người lao động Mỹ. Durant không chỉ viết về nhiều chủ đề mà còn tiến hành thực hiện các ý tưởng của mình. Nhiều người cho rằng, Durant cố gắng đưa triết học đến với những người dân thường. Ông đã viết những cuốn Câu chuyện triết học, Những lâu đài triết học, và với sự trợ giúp của vợ ông, Ariel, viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông cũng viết nhiều bài báo chí. Ông đã cố gắng cải thiện sự hiểu biết những quan điểm về loài người và sự tha thư của người khác cho những nhược điểm và tính bướng bỉnh của loài người.Năm 1900, Will tốt nghiệp thầy tu dòng Tên tại Học viện Saint Peter và sau đó là Trường Saint Peter tại thành phố Jersey, New Jersey. Năm 1905, ông trở thành một nhà xã hội. Ông tốt nghiệp năm 1907. Ông làm việc như một nhà báo cho tờ New York Evening Journal của Arthur Brisbane với thù lao mười dollar một tuần. Khi làm việc cho tờ Evening Journal, ông đã viết nhiều bài báo về các vụ tội phạm tình dục.Tiếp theo, năm 1907, ông bắt đầu dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh và hình học tại Trường Seton Hall, ở Nam Orange, New Jersey. Durant cũng làm người quản thủ thư viện tại trường. Năm 1911 ông rời khỏi Trường dòng. Ông trở thành một giáo viên và người đứng đầu học sinh tại trường Ferrer Modern, một sự thử nghiệm trong việc đào tạo quản thủ thư viện. Alden Freeman đã tài trợ để ông đi vòng quanh Châu Âu. Tại Trường Modern, ông yêu và cưới một học sinh nhỏ hơn ông mười ba tuổi tên là Ida Kaufmann, sau đó ông đặt cho bà biệt hiệu là “Ariel”. Vợ chồng Durant có một con gái, Ethel. Ariel có đóng góp quan trọng trong tất cả các tập của bộ Câu chuyện văn minh nhưng tên bà chỉ được in trên trang bìa Tập VII, Thời đại của những lý lẽ bắt đầu.Năm 1913, ông rời bỏ công việc giáo viên. Để kiếm sống, ông bắt đầu thuyết trình trong một nhà thờ tôn giáo để kiếm mỗi lần năm đến mười dollar; tài liệu cho những bài giảng đó là những cơ sở ban đầu cho cuốn Câu chuyện văn minh. Alden Freeman trả học phí để ông tốt nghiệp Đại học Columbia.Năm 1917, khi chuẩn bị luận án tiến sỹ triết học, Will Durant đã viết cuốn sách đầu tiên của ông, Triết học và Vấn đề xã hội. Ông tranh luận với ý kiến rằng triết học đã không phát triển bởi vì nó né tránh các vấn đề thực tại của xã hội. Ông nhận bằng tiến sỹ năm 1917. Ông cũng làm trợ giáo tại Đại học Columbia.
Cuốn câu truyện triết học trở thành bestseller, giúp cho vợ chồng Durant sự độc lập tài chính cho phép họ du lịch thế giới nhiều lần và bỏ ra bốn thập kỷ để viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông nghỉ dạy và bắt đầu viết mười một tập của cuốn Câu chuyện văn minh. Will phác thảo một quyền dân sự “Tuyên ngôn của sự phụ thuộc lẫn nhau” trong những năm đầu thập kỷ 1940, gần mười năm trước quyết định Brown (xem Brown phần Ban giáo dục) kích thích Phong trào quyền dân sự. Bản tuyên ngôn này được trích dẫn trong Biên bản nghị viện vào ngày 1 tháng 10, 1945.
Vợ chồng Durant phấn đấu thông qua cuốn Câu chuyện văn minh để tạo dựng ra thứ mà họ gọi là “lịch sử toàn bộ”. Họ phản đối sự “chuyên hoá” lịch sử, một sự loại bỏ trước thời hạn của thứ mà một số người đã gọi là “sự thờ cúng các chuyên gia”. Mục đích của họ là viết một bản “tiểu sử, lý lịch” của văn minh, trong trường hợp này, phương Tây, bao gồm không chỉ các cuộc chiến thường lệ, chính trị và tiểu sử của những điều vĩ đại và tầm thường nhất mà còn là văn hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và sự trỗi dậy của truyền thông đại chúng. Đa phần của Câu chuyện coi các điều kiện sống của người dân thường qua vỏ bọc phương Tây hai nghìn năm trăm năm của họ. Họ cũng đưa ra một khung đạo đức cứng rắn cho những vấn đề của họ, luôn luôn nhấn mạnh sự lặp lại của “sự thống trị của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, sự khôn ngoan đối với cái đơn giản.” Câu chuyện Văn minh là một loạt ghi chép lịch sử thành công nhất. Có người cho rằng loạt sách này đã “đưa Simon và Schuter trở thành” như một nhà xuất bản. Bằng chứng cho điều này rất dễ nhận thấy; hiếm khi trong thư viện Mỹ không có ít nhất một (hoặc nhiều hơn) bộ Câu chuyện văn minh. Cuốn Rousseau và Cách mạng, (1967), tập mười của bộ Câu chuyện lịch sử của họ đã được trao giải Pulitzer về văn chương; sau đó được Tổng thống Ford trao giải cao nhất của Chính phủ Mỹ dành cho cá nhân, Huy chương tự do của tổng thống năm 1977. Tiếp theo cuốn Rousseau và Cách mạng họ ra một cuốn mỏng hơn về những quan sát được gọi là Các bài học lịch sử, vừa tóm tắt, vừa phân tích các sự kiện. Mặc dù họ có ý định viết đến tận thế kỷ 20, nhưng đơn giản họ đã hết thời gian và phải dừng ở cuốn thứ mười. Tuy nhiên họ đã xuất bản một cuốn cuối cùng, cuốn số 11, Thời đại của Napoleon năm 1975. Hai cuốn của Will được xuất bản sau khi ông chết trong những năm gần đây là Những trí tuệ và ý tưởng của mọi thời đại (2002) và Những anh hùng của lịch sử: Một cuốn sử vắn tắt về văn minh từ Thời cổ đại đến buổi đầu Thời hiện đại (2001).
Ông bà Durant có câu chuyện tình yêu cũng đáng chú ý như tình bạn học; họ đã tả chi tiết chuyện này trong cuốn Tự truyện của hai người. Họ chết cách nhau trong vòng hai tuần năm 1981 (bà vào 25 tháng 10 và ông ngày 7 tháng 11). Mặc dù con gái họ, Ethel, và những đứa cháu cố gắng giữ kín cái chết của Ariel để Will khỏi đau đớn nhưng ông biết được điều đó qua báo chí vào buổi chiều. Chỉ trong một tuần ông theo người vợ yêu dấu vào cõi chết ở tuổi 96. Hiếm khi có hai học giả sống cuộc đời đáng chú ý như công việc của họ. Ông được chôn cất bên cạnh bà trong Nghĩa trang Memorial Park, Westwood, Los Angeles.