Chế-độ thực dân đã cáo chung ở Việt-Nam và đang chấm dứt ở hầu hết các thuộc địa trên thế-giới. Ngày nay, nhìn lại một giai đoạn đất nước bị ngoại bang thống-trị, chúng ta có thể rút ra được một bài học lịch sử về những chế-độ chính-trị.
Thực dân là một hành-động xâm lăng và duy trì sự xâm lăng bằng bạo lực nhằm khai-thác và chiếm đoạt những tài-nguyên của các nước bị thuộc-địa. Đó là một hình thức người bóc lột người, người đè nén người. Cho nên chế-độ thực dân là một chế-độ vô nhân đạo, phi chính nghĩa.
Vì không thể phơi bày tính chất vô nhân đạo một cách trắng trợn, nên chế-độ thực dân phải núp sau những lý-tưởng, những chủ-nghĩa giả dối để huyễn diệu người ta. Có thể gọi những ?? chủ-nghĩa thực dân tạo ra là huyền-thoại.
Nhưng sự bó buộc phải tạo ra huyền-thoại vì thiếu chính nghĩa cũng bày tỏ nhược điểm căn bản của chế-độ thực dân, dù nó có mạnh về quyền lực, võ khí, mưu trí… Chính-nghĩa là cái nền của một chế-độ, không có nền kiên cố thì dù mái tường nhà có chắc chắn đến đâu cũng không thể đứng vững lâu dài được. Trong lịch sử nhân loại, những chế-độ xây trên bạo tàn gian ác đều phải sụp đổ. Đó là một quy luật lịch sử, đồng thời cũng là một chân-lý cho phép những người bị áp bức tin-tưởng và hy-vọng trong sự chịu đựng và cuộc chiến đấu của họ : một chế-độ bạo tàn gian-ác không phải là một định-mệnh và không thể tồn-tại-vĩnh-viễn được.
*
Về chế-độ thực dân Pháp ở Việt-nam, hiện nay chúng ta chưa có những cố gắng biên khảo đầy đủ chính xác. Những vấn-đề lớn cần được khảo sát và đi sâu như : chính sách cai trị của người Pháp, tình trạng kinh-tế, thương nghiệp, y-tế, giáo dục xã-hội, sự hình thành các tầng lớp xã-hội (tư bản, mại bản, công nhân, v.v…) lịch sử các phong trào cách mạng Việt-nam, chính sách văn-hóa của người Pháp.
Riêng về văn-hóa, có thể chú trọng vào ba nhiệm-vụ chính : xét lại và phê phán những thành quả hoạt-động của trường Viễn-Đông bác cổ ; tìm hiểu những chủ-đích chính-trị trong những sách vở biên khảo rất ít giá-trị nghiên cứu khoa-học, nhưng lại rất nhiều dụng-ý chính-trị của một số quan lại thực-dân kiêm học giả và sau cùng, giới-thiệu phân-tách cái mà người Pháp gọi là « văn chương thuộc địa » ở Đông Dương.
Tập biên khảo này nhằm góp một phần thực hiện nhiệm vụ thứ hai đề ra ở trên. Vì chỉ muốn tìm hiểu những huyền-thoại, nên trọng tâm những suy tưởng của tác giả chủ yếu hướng về phân-tách huyền-thoại hơn là trình bày tổng quát và đầy đủ lịch-sử những tư-tưởng đường lối chính-trị của Pháp hay của các phong-trào cách-mệnh Việt-nam.
Tác giả nhận định rằng vai trò của những huyền-thoại mà thực dân tạo ra để biện chính cho chế-độ thuộc địa ở Việt-Nam chấm dứt sau thời kỳ mặt trận bình dân. Do đó, tác giả không nhắc tới những tư tưởng chính-trị chỉ đạo những sinh hoạt văn-hóa của các đảng phái, các nhóm văn-đoàn trong thời kỳ sau cùng từ 1936 đến 1945.
Về phía sách báo Pháp thuộc loại biên khảo có dụng ý chính-trị, thực ra cũng khá nhiều, nên tác giả cũng không biết có bỏ sót những tài liệu nào quan trọng liên-hệ đến vấn-đề huyền-thoại ở đây.
Dù sao, khi giới-thiệu luận văn này với các bạn độc giả, tác giả chỉ mong gây được những thắc mắc, làm khởi điểm cho những cuộc bàn cãi, tìm kiếm sâu rộng và đầy đủ hơn sau này.
Tác giả muốn được coi như một người đi đường trong cuộc hành trình tư tưởng. Với người đi đường, tất cả những gì mình thấy, đều chỉ là những nhận định, những giả thuyết, những đầu đề khơi mào câu chuyện, luôn luôn có thể xét lại hay xóa bỏ đi. Tác giả không mong bảo-vệ tư tưởng, nhất là những tư tưởng của mình, nhưng tha thiết muốn bảo vệ sinh hoạt tư-tưởng, cho mình và cho mọi người. Đó mới là cái cốt yếu.
Cho nên, qua tập luận văn này, nếu tác giả nêu lên được một vấn đề, bó buộc được các bạn đọc phản ứng, và phải bước vào cuộc hành trình tư-tưởng của mình, thì tác giả nghĩ rằng đã đạt được chủ-đích và có thể coi đó như một phần thưởng cho những cố gắng của mình rồi.
*
Muốn hiểu một cách xác đáng những chính sách văn-hóa cũng như tất cả những đường lối chính-trị, kinh-tế, giáo dục, v.v… của người Pháp ở Việt-Nam thời thuộc địa, thiết tưởng điều cốt yếu là phải tra hỏi dự phóng nền tảng của chế độ thực dân. Gọi là dự-phóng nền tảng, cái chủ-đích căn bản xác định việc đi thực dân là thực dân mà bất cứ chủ-trương gì hay chính-sách nào do thực dân đề ra đều phải nằm trong dự-phóng nền tảng đó. Dự-phóng nền tảng xuất-hiện như thế nào là tùy ở yếu tính, thực chất của nó.
Vậy sở dĩ không thể có một chủ-trương, một chính sách gì của thực dân, dù được ngụy trang khéo léo đến đâu đi nữa, cũng không thể trái ngược, chống lại với dự-phóng nền tảng của nó, vì chống lại với dự-phóng nền tảng là tiêu diệt thực chất, là chế-độ thực dân tự phủ nhận, không còn phải là thực-dân.
Dự-phóng nền tảng của chế-độ thực dân là khai thác của cải làm giàu và thực chất của nó là bạo-động ; bạo-động xâm lăng và bạo-động duy trì xâm-lăng. Cho nên, không nắm được dự-phóng nền tảng, thực chất của chế-độ thực dân không thể thấu hiểu một cách nghiêm chỉnh những chính sách đường lối thực sự của nó thường đội lốt, trá hình dưới những hình-thức có vẻ mâu-thuẫn với dự-phóng nền tảng, với thực-chất.
Sở dĩ, những chính-sách của thực-dân phải núp dưới những hình-thức có vẻ mâu-thuẫn với thực-chất của nó là vì thực-dân không thể phơi bày một cách lộ liễu thực chất đó.
Một huyền-thoại căn bản nhằm biện-chính hành-động thực-dân là niềm tin tính cách cao-đẳng của người da trắng, của nền văn-minh tây phương và do đó, quyền được bá chủ, thống trị các dân-tộc khác.
Khi các nước phương-Tây đi chiếm thuộc-địa đều tin-tưởng như thế. Đấy là một huyền-thoại có tính cách vị kỷ. Nó biểu lộ một thái-độ nhận-thức của người còn ở giai-đoạn chỉ biết mình và chưa biết người. Nói cách khác, người đi thực-dân mới đứng ở quan-niệm quyền lợi của mình để biện-chính hành-động thực-dân, biện-chính cho mình, với mình mà thôi.
Nhưng về sau, trước những chống đối của dư-luận thế giới và nhất là trước những kháng cự của người thuộc địa bản xứ, người thực dân bó buộc phải nghĩ tới người khác. Đó là giai-đoạn họ có ý-thức về tha-nhân (conscience d’autrui). Đến đây, người đi thực dân phải đứng ở cả quan-điểm quyền lợi của người thuộc địa để biện-chính hành-động thực dân.
Những huyền thoại khác được tạo ra, như huyền-thoại khai-hóa, Pháp-Việt đề huề, Pháp-Nam hiệp tác, Đông-Tây tổng hợp, v.v…
Tập biên khảo này chủ yếu nhằm phân tách những huyền-thoại trên.
Xét về nội dung, những huyền-thoại này chẳng có gì đáng để ý. Nhưng nếu tìm hiểu chúng ta đã hình thành trong một hoàn-cảnh chính-trị nào và nhằm đưa tới những tác dụng gì, vấn-đề trở thành lý-thú và đáng được nghiên-cứu.
Vì những huyền-thoại được tạo ra do những chống đối của người bản xứ, nên phải tìm hiểu xem thực dân đã phê phán và đánh giá thế nào những phong-trào cách-mạng Việt-Nam… Tác giả trình bày một lối nhìn cách-mạng Việt-Nam theo con mắt của người Pháp và thử đưa ra một vài nhận định giải thích lối nhìn đó. Nếu thực sự đó là lối nhìn của người Pháp, người ta sẽ thấy được nó sâu xa hay nông cạn ở điểm nào, đồng thời cũng thấy được đâu là chỗ mạnh, yếu của những phong trào cách-mạng Việt-Nam.
Nhưng trong cuộc giao tranh giữa thực dân và cách mạng, chỗ yếu của thực dân lại chính là chỗ mạnh của cách-mạng và đó là chỗ then chốt quyết-định thắng bại. Thực dân cố tìm cách che giấu chỗ yếu của mình, nhưng càng che giấu, càng để lộ cái muốn che giấu ; sau cùng, những huyền thoại được bày ra để che giấu lại tạo điều-kiện đánh đổ thực-chất và tiêu diệt huyền-thoại. Huyền-thoại tự xây mồ chôn mình và mồ chôn luôn cả chế-độ thực-dân.
Đó là số phận những huyền-thoại của chủ-nghĩa thực dân, đồng thời cũng là số phận của chính chế-độ thực dân.
Tháng 5-1963
MỤC LỤC
LỜI TỰA
CHƯƠNG I : THỰC-CHẤT CỦA CHẾ-ĐỘ THỰC-DÂN
I. THỰC-CHẤT
1) BẠO-ĐỘNG ĐỂ XÂM-LĂNG
2) MỘT CÁI THƠ ĐÁNG ĐỌC
3) BẠO-ĐỘNG ĐỂ DUY-TRÌ THUỘC-ĐỊA
b) TRA-TẤN
c) TRẠI-GIAM
d) ĐẦU-ĐỘC
e) PHÁP-VIỆT ĐỀ-HUỀ
f) KHAI-HÓA VĂN-MINH
4) BỌN BUÔN NÔ-LỆ DA VÀNG
b) ĐỜI SỐNG Ở ĐỒN-ĐIỀN
c) THƠ GỞI CHỦ-NHIỆM BÁO « ECHO ANNAMITE » SAIGON (17-9-1928)
d) VỤ ÁN BAZIN
e) LỜI NÓI CỦA QUAN TOÀN-QUYỀN
f) TRÊN ĐƯỜNG CÁI QUAN
g) MỎ THAN HÒN-GAI
II. THỰC-DÂN
1) THỰC DÂN MỘT HÀNH-ĐỘNG THA-HÓA CON NGƯỜI
2) NGÔN-NGỮ, VĂN-CHƯƠNG BẠO-ĐỘNG
3) TRƯỜNG HỢP PIERRE LOTI
b) CUỘC ĐỔ-BỘ THUẬN-AN THEO PIERRE LOTI
c) NƯỚC THỔ-NHỈ-KỲ HẤP-HỐI
CHƯƠNG II : NHỮNG HUYỀN-THOẠI CỦA CHỦ-NGHĨA THỰC-DÂN
I. KHÁI NIỆM HUYỀN-THOẠI
1) ĐỊNH NGHĨA HUYỀN-THOẠI
2) CÁCH CẤU-TẠO HUYỀN-THOẠI
3) XÃ-HỘI VÀ HUYỀN-THOẠI
II. NHỮNG HUYỀN-THOẠI CỦA CHỦ-NGHĨA THỰC-DÂN Ở VIỆT-NAM
1) GIAI-ĐOẠN CHUYỂN TIẾP
b) ÂM-MƯU THÔN-TÍNH
c) LANESSAN
3) GIAI-ĐOẠN HUYỀN-THOẠI ALBERT SARRAUT
b) VINH-NHỤC THỰC-DÂN
c) SỰ PHÁT-HUY CỦA CHỦ-NGHĨA THỰC-DÂN ÂU-CHÂU
d) NƯỚC PHÁP BÓ BUỘC PHẢI CÓ THUỘC-ĐỊA
e) THÀNH-LẬP ĐẾ-QUỐC
f) LÝ-THUYẾT THỰC-DÂN
g) ƠN-HUỆ THỰC-DÂN
h) NHỮNG LÀN SÓNG PHẢN-KHÁNG
i) BỔN-PHẬN CỦA NGƯỜI DA TRẮNG
j) BÀI DIỄN-THUYẾT Ở VĂN-MIẾU
3) HUYỀN THOẠI PHÁP VIỆT ĐỀ HUỀ
b) MỘT VÀI Ý-TƯỞNG CHÍNH VỀ SỰ TƯƠNG-TỰ GIỮA XÃ-HỘI LA-MÃ CỔ VÀ XÃ-HỘI VÀNG
c) VĂN-CHƯƠNG VÀ XÃ-HỘI TỘC-TRƯỞNG
CHƯƠNG III : CHỖ YẾU MẠNH CỦA NHỮNG PHONG-TRÀO CÁCH-MẠNG VIỆT-NAM
GIAI ĐOẠN I : HỆ TƯ-TƯỞNG QUÂN-CHỦ PHONG-KIẾN
GIAI ĐOẠN II : HỆ-TƯ-TƯỞNG PHẢN-ĐẾ, BÀI PHONG CÓ TÍNH-CÁCH HÌNH-THỨC
1) NHỮNG CUỘC VẬN-ĐỘNG VĂN-HÓA GIÁO-DỤC
b) PHONG-TRÀO ĐÔNG-KINH NGHĨA-THỤC
2) NHỮNG ĐIỂM CHÍNH TRONG CUỘC VẬN-ĐỘNG CÁCH-MẠNG VỀ TƯ-TƯỞNG
b) CẢI-TẠO HỌC-THUẬT, GIÁO-DỤC
c) CỔ-ĐỘNG HỌC QUỐC-NGỮ
d) CẢI-TẠO XÃ-HỘI
e) VỀ VĂN HÓA
f) VỀ XÃ-HỘI
3) NHỮNG ĐẢNG CÁCH MẠNG
GIAI-ĐOẠN III : GIAI-ĐOẠN PHẢN-ĐẾ VÀ PHẢN-PHONG CÓ NỘI-DUNG THỰC-SỰ
CHƯƠNG IV : NHỮNG MÂU-THUẪN GIỮA THỰC-CHẤT VÀ HUYỀN-THOẠI
I. NHỮNG MÂU-THUẪN GIỮA THỰC-DÂN VỚI THỰC-DÂN
II. HUYỀN-THOẠI CHỐNG LẠI THỰC-CHẤT
1)VUA
2) QUAN LẠI
3) THÔN XA
III. SỰ SỤP ĐỔ CỦA NHỮNG HUYỀN-THOẠI
LỜI KẾT LUẬN
CHÚ THÍCH
SÁCH ĐỌC VÀ TRÍCH DẪN