Trên đây chỉ là hai trong số rất nhiều trận đánh trong lịch sử quân sự nước ta, giành đại thắng nhờ nghệ thuật quân sự tài tình. Trận Như Nguyệt (Lý Thường Kiệt đánh quân xâm lược Tống), trận Chương Dương - Thăng Long, trận Bạch Đằng, trận Chi Lăng - Xương Giang cũng là những trận đánh tiêu biểu cho khả năng vận dụng tuyệt vời nghệ thuật quân sự của người cầm quân.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, nghệ thuật quân sự được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, chủ động và có bước trưởng thành mới. Chiến tranh nhân dân ba thứ quân là bảo bối của kháng chiến, đã phát huy được sức mạnh của toàn dân. Ba thứ quân đó là quân chủ lực, quân địa phương và dân quân tự vệ, du kích. Chiến dịch Biên giới năm 1950, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, chiến dịch Tây Nguyên 1972, cuộc các chiến dịch trong chiến cục Xuân 1975… là các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, có sự vận dụng mềm dẻo, linh hoạt những mưu kế, nghệ thuật dụng binh trong lịch sử, đồng thời thể hiện bước trưởng thành lớn trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nhờ vậy mà các chiến dịch đã giành được những thắng lợi mang tầm vóc lịch sử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”. Xa hơn nữa, trong tác phẩm Quân trung từ mệnh tập có nói: “Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn, mất thời không thế, thì mạnh hoá ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng vô song của nghệ thuật quân sự. Những nghiên cứu sâu sắc, những tổng kết kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự trong lịch sử quân sự nước ta của Thượng tướng - Nhà giáo nhân dân - Giáo sư Hoàng Minh Thảo là một đóng góp quan trọng, đáng trân trọng trong việc gìn giữ, phát triển kho tàng nghệ thuật quân sự quý báu Việt Nam.