Cho đến nay, vấn đề Trạng Quỳnh vẫn còn đòi hỏi thêm sự nghiên cứu và phân tích. Qua sử sách, gia phả, người ta tìm thấy một Nguyễn Quỳnh thực, cũng giỏi thơ văn, có tài hài hước. Tuy nhiên không thể đồng nhất hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian, bởi vì trong kho tàng chuyện Trạng ở Việt Nam có sự khác nhau giữa những câu chuyện có thật của những ông Trạng có thật và những chuyện mang tính chất hoặc giá trị “Trạng”. Ở vế thứ hai, trong dân gian đã lưu truyền những giai thoại về những nhà khoa bảng trí thức không đỗ Trạng Nguyên. Tuy không có học vị nhưng vì tài năng và những hoạt động, hoặc trong cuộc sống của của các vị “Trạng” này có những nét đặc biệt, mang phong cách Trạng và đậm màu cổ tích nên họ được dân gian ngưỡng mộ, tôn vinh làm Trạng. Thậm chí, có cả những nhân vật mà không ai dám quyết đoán đó là những người đã sống giữa cõi nhân gian hay chỉ là những nhân vật hoàn toàn được hư cấu.
Càng ngày, những mẫu chuyện, giai thoại về họ càng được dân gian sáng tác, thêm thắt khiến hình ảnh của các vị Trạng này càng trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi người Để cung cấp thêm cho bạn đọc, chúng tôi xin giới thiệu vài nét về ông hương cống Nguyễn Quỳnh, một người được tin rằng là khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian. Ông Nguyễn Quỳnh, còn có tên là Thưởng, hiệu Ôn Như, tên thụy là Điệp Hiên, sinh ngày mồng một tháng 10 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ hai, tức ngày 26.10.1677, mất ngày 28 tháng giêng năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9, tức ngày 26.2.1748. Quê quán Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Như vậy ông sống trong thời vua Lê chúa Trịnh Theo gia phả ghi lại, Nguyễn Quỳnh có làm huấn đạo (chức quan coi việc học ở cấp phủ thời Lê) phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long (vào đời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái).
Sau đó ông dự kỳ thi sĩ vọng (khoa thi năm Mậu Tuất 1718, thời chúa Trịnh Cương), đạt hạng ưu, được thăng chức tri phủ phủ Thái Bình. Được 2 năm, Nguyễn Quỳnh về Bộ Lễ làm viên ngoại lang (một chức thư ký ở Bộ, chẳng có quyền hành gì). Sau đó lại bị giáng chức làm tu soạn Viện Hàn Lâm, hàm chánh bát phẩm (tụt xuống 3 bậc). Về sự nghiệp văn chương, rất tiếc, đã thất truyền, gia phả chỉ còn chép lại 6 bài văn bằng chữ Hán của Nguyễn Quỳnh gồm: “Hạnh nghĩa ký” (bài ký về những việc nghĩa của người ông nội), “Sơ ngu văn”(bài văn tế bà mẹ, viết năm 1707), “Từ mẫu đường ký” (bài ký về ngôi nhà Nhớ mẹ, viết năm 1709), “Văn tế khóc em” (khóc em tên Cầu, viết năm 1716), “Tốt khốc văn” (văn tế ông Cầu vào dịp 100 ngày), “Trung nguyên văn” (văn tế ông Cầu vào ngày rằm tháng 7) Sách “Nam thiên lịch đại tư lược sử”, một quyển sử có lẽ được viết đầu thời Nguyễn, khi nói đến Nguyễn Quỳnh, có một câu đáng chú ý : “Quỳnh, Hoằng Hóa Bột thái nhân, từ chương minh thế, đàm thuyết: kinh nhân, trường ư quốc âm, thiện ư hí hước” nghĩa là: Quỳnh người Bột Thái, Hoằng Hóa, từ chương nổi tiếng ở đời, nói năng bàn luận kinh người, sở trường về văn thơ Nôm và giỏi hài hước.