Từ Beirut Đến Jerusalem viết về những xung đột gay gắt ở khu vực Trung Đông, được chia làm hai phần: Beirut và Jerusalem.
Phần thứ nhất: Beirut, Friedman đã tái hiện một cách sống động về cuộc nội chiến của người dân Liban. Từ lịch sử cuộc nội chiến, những xung đột nội bộ gay gắt đến chi tiết nước Mỹ nhảy vào cuộc chiến này bằng cách nào và diễn biến ra sao đều được ống kính phóng viên của ông thu trọn.
Phần thứ hai: Jerusalem, hai chương đầu là bức tranh thu nhỏ nền văn hóa của người Do Thái và nguồn gốc của người Israel, từ đó tác giả đi sâu phân tích lịch sử và diễn biến của cuộc xung đột giữa người Palestine và người Israel.
Với giọng văn sắc sảo, trong sáng, Từ Beirut đến Jerusalem đã chạm sâu hơn vào lịch sử đau thương và vô cùng phức tạp của cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông. Cuốn sách khiến độc giả trải nghiệm hết những cung bậc cảm xúc, từ những đau đớn tột cùng đến những nụ cười sảng khoái. Một cuốn sách không thể bỏ qua đối với bất cứ ai đang tìm kiếm cái nhìn sâu hơn về những nguyên nhân chính trị và những ảnh hưởng tâm lý của cuộc xung đột đa sắc tộc đã bủa vây khu vực chưa bao giờ chấm dứt tiếng súng này.
Từ Beirut Đến Jerusalem – Một tác phẩm với nội dung phong phú, thấm đẫm nỗi đau và những sự thật kinh hoàng” – Chaim Poyok, báo Washington
Từ Beirut Đến Jerusalem – Một cuốn sách hướng dẫn lấp lánh trí tuệ… Một chuyến đi thú vị không thể bỏ lỡ – Tạp chí phố Wall
Bảng niên đại khu vực Trung đông
1882 Kết quả của việc bức hại người Do Thái ở Nga và Romani một năm trước đó, cuộc nhập cư trên diện rộng đầu tiên của người Do Thái định cư sang Palestine được tiến hành. 1891 Các nhân sĩ người Ả rập ở Jerusalem gửi đơn thỉnh cầu tới chính quyền Ottoman ở Constantinople yêu cầu ngăn cấm việc nhập cư của người Do Thái tới Palestine và việc mua bán đất của người Do Thái.
1896 Nhà báo người Áo, Theodor Herzl, người sáng lập của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hiện đại, xuất bản cuốn sách Nhà nước của người Do Thái, trong đó lý luận rằng “Vấn đề của người Do Thái” có thể được giải quyết chỉ bằng cách thiết lập một nhà nước Do Thái ở Palestine hoặc ở một nơi nào đó, vì thế người Do Thái có thể sống tự do mà không còn lo sợ bị bức hại. Một năm sau đó, Herzl tổ chức Đại hội Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái lần đầu ở Basel, Thụy Sĩ, để thúc đẩy việc nhập cư tới Palestine.
1908 Những tờ báo tiếng Ả rập của người Palestine đầu tiên xuất hiện: Al-Quds ở Jerusalem và Al-Asma’i ở Jaffa.
1916 Anh, Pháp và Nga ký kết hiệp định Sykes-Picot, chia nhỏ Đế chế Ottoman sau thất bại của nó tại Thế chiến thứ Nhất. Như quy định trong Hiệp định, Anh sẽ giành quyền kiểm soát khu vực Palestine, còn Pháp là khu vực bây giờ là Liban và Syria.
1917 Tuyên bố Balfour được Bộ trưởng Ngoại giao Anh, Arthur J. Balfour ban hành, xác nhận ý tưởng thành lập một “quê hương bản quán” cho dân tộc Do Thái ở Palestine.
1920 Sắc lệnh của người Pháp về việc thành lập Liban Lớn hơn, nối vùng núi Liban với các khu vực Beirut, Tripoli, Sidon, Tyre, Akkar, và Thung lũng Bekaa.
1936-1939 Bị ảnh hưởng bởi các phong trào chủ nghĩa dân tộc của các nước Ả rập khác, người Ả rập ở Palestine nổi dậy với nỗ lực nhằm ngăn chặn việc thành lập quê hương cho người Do Thái ở Palestine. Cả những người Do Thái định cư với các đơn vị quân đội của Anh đều rơi vào cuộc tấn công.
1943 Các lãnh đạo Hồi giáo và Cơ đốc giáo của Liban thống nhất một “Công ước Dân tộc” để chia sẻ quyền lực và cân bằng những khuynh hướng giữa Ả rập và phương Tây ở Liban, cho phép quốc gia của họ trở thành một nhà nước độc lập, không phụ thuộc vào nước Pháp.
1947 Liên Hợp Quốc biểu quyết phân chia Palestine thành hai nhà nước, một cho người Do Thái và một cho người Ả rập Palestine, với Jerusalem trở thành một vùng đất quốc tế.
1948 Anh rút khỏi Palestine. Thay vào đó là thi hành kế hoạch chia cắt của Liên Hợp Quốc, các nhà nước Ả rập xung quanh kết hợp với người Palestine ở địa phương cố gắng ngăn cản việc xuất hiện một nhà nước Do Thái. Israel được thành lập bằng bất cứ giá nào; Jordan chiếm cứ Bờ Tây, còn Ai Cập là Dải Gaza.
1956 Israel kết hợp cùng với lực lượng của Anh và Pháp tấn công Ai Cập của Gamal Abdel Nasser, chiếm cứ hầu hết vùng Bán đảo Sinai. Dưới áp lực của cả Liên Hợp Quốc và Liên bang Xô viết, sau đó Israel đã rút quân.
1958 Cuộc nội chiến đầu tiên ở Liban nổ ra, và có khoảng 15 nghìn lính Mỹ được gửi tới Beirut để giúp ổn định tình hình.
1964 Những người đứng đầu nhà nước Ả rập do Nasser lãnh đạo thành lập Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) ở Cairo.
1967 Isarel lao vào một cuộc tấn công trước chống lại Ai cập, Syria, và Jordan vì họ đang chuẩn bị cho cuộc chiến chống lại nhà nước Do Thái. Cuộc chiến Sáu ngày kết thúc với Israel chiếm cứ Bán đảo Sinai, Cao nguyên Golan, Dải Gaza, và Bờ Tây.
1969 Yasir Arafat, lãnh đạo của tổ chức du kích al-Fatha, được bầu chọn làm chủ tịch ủy ban chấp hành của PLO.
1970 Quân đội của vua Hussein đánh bại lực lượng du kích PLO của Arafat trong một cuộc nội chiến nắm quyền kiểm soát Jordan.
1973 Ai Cập và Syria lao vào một cuộc tấn công bất ngờ chống lại Israel để giành chiếm cứ Bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan.
1974 Hội nghị thượng đỉnh Ả rập ở Rabat, Ma-rốc phê chuẩn PLO là “đại diện hợp pháp và duy nhất” của người Palestine.
1975 Cuộc nội chiến bùng nổ một lần nữa ở Liban.
1977 Tổng thống Ai Cập, Anwar Sadat tới Jerusalem, phát biểu trước nghị viện Israel, và đề nghị một nền hòa bình trọn vẹn đổi lại là Isreal phải rút hoàn toàn ra khỏi Sinai.
1979 Ai Cập và Israel ký kết hiệp định hòa bình.
1982, Tháng Hai Chính phủ Syria tàn sát hàng nghìn thường dân trong khi đàn áp cuộc nổi loạn của người Hồi giáo nổi dậy ở thị xã Hama.
1982 từ tháng Sáu tới tháng Chín Israel xâm lược Liban. Lãnh đạo lực lượng quân đội của Phalange, Bashir Gemayel bị ám sát sau khi được bầu làm Tổng thống Liban. Lực lượng quân đội Phalang đã tiêu diệt hàng trăm người Palestine ở trong các trại tị nạn Sabra và Shatila ở Beirut, trong khi lực lượng Isrel bao vây những trại tị nạn này. Lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ tới Beirut với vai trò là lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia.
1983 Đại sứ quán Hoa Kỳ và trụ sở của Lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ ở Beirut bị nổ tung do vụ đánh bom cảm tử bằng xe hơi.
1984, Tháng Hai Chính quyền Liban của Tổng thống Amin Gemayel bị đập tan sau khi người Hồi giáo Shiite và Druse ở Tây Beirut lao vào một cuộc nổi dậy chống lại quân đội Liban. Tổng thống Reagan từ bỏ hy vọng tái lập Liban và ra lệnh cho lực lượng Lính thủy đánh bộ trở về nước. 1984, Tháng Chín Đảng Lao động và Đảng Likud của Israel cùng gia nhập vào một chính quyền thống nhất quốc gia sau khi những cuộc bầu cử tháng Bảy kết thúc trong bế tắc.
1985 Israel đơn phương rút lực lượng quân đội khỏi hầu hết các vùng ở Liban. 1987, Tháng Mười hai Người Palestine nổi dậy, hay là intifada, bắt đầu ở Bờ Tây và Dải Gaza.
1988, Tháng Mười hai Arafat thừa nhận quyền tồn tại của Israel. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, George P. Shultz cho phép mở một cuộc đối thoại với PLO. Đảng Likud và Đảng Lao động cùng liên kết để thành lập một chính quyền thống nhất quốc gia khác ở Israel sau cuộc bầu cử không có kết quả khác.