Giới Thiệu Di cảo Nguyễn Minh Châu
Vào đầu tháng 7 năm nay, những người quan tâm đến văn học Việt Nam vui mừng đón đọc cuốn Di cảo Nguyễn Minh Châu với gần 500 trang do Nhà xuất bản Hà nội phát hành. Nguyễn Minh Châu là một trong những người tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học qua các tập truyện ngắn như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, qua những tiểu luận xung quanh văn chương và nghề nghiệp đã được tuyển chọn trong Trang giấy trước đèn. Di cảo Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta thấy rõ hơn ý thức đổi mới tư duy nghệ thuật mà với Nguyễn Minh Châu luôn luôn là nỗi trăn trở day dứt khôn nguôi, đặc biệt là trong hơn chục năm cuối đời.
Chúng ta có thể gặp ở đây quan niệm nghệ thuật, nỗi đau xót, suy tư về chiến tranh, về con người, về trách nhiệm của người nghệ sỹ trước thời cuộc. Cùng với toàn bộ những sáng tác đã xuất bản, Di cảo Nguyễn Minh Châu góp phần hoàn chỉnh thêm bức chân dung về ông – một nhà văn – chiến sỹ suốt đời không ngừng trăn trở, âu lo về về số phận con người, dân tộc; cho sự tồn tại của ngòi bút mình trước sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian và bạn đọc.
Di cảo của Nguyễn Minh Châu được chia làm ba phần. Phần I: Tiếng vọng, phần II: Nghề văn và phần III: Riêng tư.
Phần I của tập Di cảo được ghi trong chuyến đi chiến trường Quảng Trị từ năm 1967 trở đi. Đây là quãng thời gian xảy ra chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, bối cảnh mà ông chọn để viết nên Dấu chân người lính và một số truyện ngắn khác. Đọc những trang ghi chép tỉ mỉ về chiến trường Quảng Trị người đọc thấy như hiện ra mồn một trước mắt mình tất cả cái ngổn ngang, bộn bề của những năm chiến tranh ác liệt. Muôn vàn cái chết khác nhau. Muôn vàn gian khổ khác nhau… Từ việc nắm bắt cái hồn cốt trong cuộc sống, trong tâm hồn mỗi chiến sỹ, mỗi người dân, Nguyễn Minh Châu đã chưng cất lên thành một Dấu chân người lính mượt mà trong cảm hứng sử thi. Những con người có thật ngoài đời đó đã bước vào và sống lại một cuộc đời khác trong tác phẩm của ông, trong nền văn học chống Mỹ của dân tộc, rồi họ lại bước ra cuộc đời và tái sinh trong bạn đọc.
Có thể nói đây là thời kỳ trong ông vẫn ý thức về chức năng văn học phải viết về lòng hy sinh vô bờ bến của mỗi người dân, về ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của nhân dân và bộ đội. Cho nên trong cái bề bộn ngổn ngang của cuộc chiến đấu, ông vẫn ghi lại những xúc động sâu sắc của mình về người chiến sỹ: Ông cho rằng chính là vì có con người xuất hiện mà đại ngàn Trường Sơn bao đời ngủ yên đã trở nên sinh động bởi ví chỉ có con người mới nhìn thấy hết vẻ đẹp của nó. Những trang viết về Trường Sơn đã cho chúng ta hiểu hơn Trường Sơn cùng với mối quan hệ của nó với con người trong những tháng ngày chiến tranh gian khổ cam go.
Cũng trong những trang ghi chép này, lắm khi Nguyễn Minh Châu bất ngờ đúc kết nên một thứ triết lý giản dị, những suy ngẫm về quy luật cuộc sống, về lẽ đời, lòng người sau bao trải nghiệm. Giữa những trang ghi chép về những con người anh hùng quả cảm đó, là những dòng tự vấn: “Có lúc tôi tự hỏi: không có sự tàn ác, chỉ có một tấm lòng tốt mà thôi, thì có sống ở trên đời được không?”. Có thể nói Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn suy nghĩ một cách sâu sắc về vai trò của của gia đình đối với cuộc sống của người chiến sỹ. Năm 1969, trong ghi chép của ông có bài Tiễn người đi bộ đội của Hà Nội đã ghi lại được không khí của dân tộc vào thời điểm Tổ quốc lâm nguy mà sau này không khí ấy gần như được đưa nguyên vào Lửa từ những ngôi nhà. Đây là cuốn sách viết về những người phụ nữ – hậu phương của người lính, phê phán việc nhìn nhận không đúng về vai trò của tình cảm gia đình trong cuộc sống của người chiến sỹ. Nhật ký ghi 18.3.73 của ông có ghi lại một câu hát của lính lái xe mà tôi nghĩ, chắc chắn nó cũng là một trong những tư tưởng quan trọng cho việc tiếp tục hoàn thiện tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà được viết trong quãng thời gian đó: Trung đoàn 13 trung đoàn thép/ Không cho đi phép thành trung đoàn nhôm/ Cho đi vài hôm thành trung đoàn thép. Phần thư từ ông gửi cho vợ con trong suốt hơn ba mươi năm được in lại một số trong tập sách này sẽ bổ sung thêm quan niệm đối với tình yêu, với tình cảm gia đình, cách nhìn đối với phụ nữ của ông mà sau này quan niệm đó được khúc xạ trong Cỏ lau, Mảnh đất tình yêu cùng một số sáng tác khác.
Trở lại chiến trường Quảng Trị năm 1973, đó là những ngày người chạy vào, kẻ chạy ra, có những người trở về trên nền đất cũ của nhà mình mà không thể nào nhận dạng được vì bom đạn đã cày nát, xoá đi các vật chuẩn cần thiết, làm biến dạng không chỉ là mảnh vườn nhà họ mà cả làng xã. Điều đáng chú ý là thời kỳ này trong ông cũng bắt đầu xuất hiện dấu hiệu của sự phản tỉnh. Điều đó giải thích cho sự tiếp tục ra đời của những sáng tác mang cảm hứng sử thi được truyền tải từ hiện thực đời sống như Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra, Lửa từ những ngôi nhà vừa cho thấy đằng sau âm hưởng sử thi đó là những trăn trở hé lộ trong tiểu luận phê bình cũng như một thứ âm hưởng khác dữ dội hơn, khốc liệt hơn trong các truyện ngắn như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành… Trong thời kỳ đầu, những ghi chép của ông hầu như chủ yếu là về những sự kiện, con người, địa danh cụ thể. Càng về sau, sự chọn lọc, độ suy ngẫm, tính triết lý càng được tăng dần. Trước đó ông viết về những sự hy sinh của bộ đội, thanh niên xung phong, của nhân dân là hầu như ông viết về một chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh. Sau này những trang ghi chép của ông còn là sự thẩm thấu một nỗi đau không thể nói thành lời trước những mất mát mà chiến tranh gây ra cho dân tộc nói chung, cho mỗi con người cụ thể nói riêng. Trong nhiều câu chuyện mà ông ghi lại, có một câu chuyện đau lòng cứ day dứt mãi trong tôi. Trong đợt trao trả tù binh trên bờ sông Thạch Hãn, một người sĩ quan bên ta khi đọc đến tên một tù binh địch thì ngờ ngợ. Khi ông đi tập kết, con ông còn nhỏ nên ở lại miền Nam cùng vợ. Ngót hai mươi năm ông chưa một lần gặp mặt, nên tin nó bị bắt lính rồi bị ta bắt ông đều không biết. Kịp đến khi đứa con cùng nhận ra ông và chỉ kịp kêu lên “Bố!” thì hai cảnh sát nguỵ lao vào khoá tay anh và nhanh chóng dòng ngay xuống thuyền qua sông Thạch Hãn. Và ba ngày sau đó, chúng bí mật đưa anh lính trẻ vừa được trao trả này đi thủ tiêu. Rồi ghi chép ngày 9.5.1973, ở Đông Hà: “Không một tàu lá nào nguyên lành. Không một gốc cây nào nguyên lành, không một đồ vật nào nguyên lành, không một tâm hồn nào nguyên lành”; lúc này “Đông Hà như thi thể của một con quái vật đã chết và qua mưa nắng, đã thối rữa” (tr287), ông đã cho thấy sự tàn phá của chiến tranh là ghê gớm thế nào. Di cảo Nguyễn Minh Châu cũng cho thấy ông đã đau nỗi đau của những người dân, ngừng tiếng súng, trở lại quê mà không còn nhà, còn đất, “rất nhiều lần tôi bàng hoàng nhìn trong nắng đổ đom đóm mắt, hình một bà già, một em bé như con tôi, dáng xiêu vẹo, gánh ra từ trong một nơi tận cùng, nơi thâm cung của đổ nát mà cũng nơi ấy con người đã ăn ở cùng gia đình, láng giềng hàng phố của họ trải nhiều năm qua với một vài bó cây cột sắt cong queo, một vài lá tôn rách nát”. Hình ảnh một em bé gánh mỗi đầu một bó “đi dò dẫm từng bước trên những hòn gạch và các thứ đồ đạc đổ vỡ, bị xé rách ngổn ngang” đã “gợi lên lòng thương của tôi đến mức muốn khóc”. “Chiến tranh, nhiều lần tôi tự than thở, làm con người ta, nhà cao, chiếu sạch không muốn ở, đem nhau ra tỉ thí, nhà đổ chiếu rách, rồi đi moi, đi tìm vài mảnh mà che mà vá, mà sống thế này đây.” Và cay đắng khi “ngày nào tôi cũng phải lội trong tàn phá, chết người và nỗi đau khổ của người sống nghĩ về người chết”. Nhiều ghi chép trong chuyến đi 559 (đường mòn Hồ Chí Minh) lần thứ hai đã vượt qua thói quen đơn thuần ghi chép về những sự tích anh hùng. Ông đã có cái nhìn ngược sáng xuyên vào mặt sau của nó. Sự quan sát và suy ngẫm vào thời kỳ này đã mang sự trải nghiệm sâu sắc xuất phát từ con người, vì thế bao trùm lên tất cả là một cái nhìn mới về cuộc chiến tranh. Đương nhiên, hoàn toàn không phải là tư tưởng phản chiến. Đây là là nỗi đau thật sự của một con người trước những mất mát, cùng khổ mà người dân hứng chịu, trước sự huỷ diệt tàn bạo của chiến tranh đối với cuộc sống của con người, là cảm hứng nhân đạo xuất hiện trong trái tim mẫn cảm. Trước nỗi đau đó của nhân dân, trái tim từng nhức nhối của ông đã có lúc bật lên: “Hai bên, ai sẽ là người thách thức đối phương một thái độ này: tất cả mọi việc mình làm chỉ để cho việc người dân bình thường đỡ bớt đi phần đau khổ. Ai sẽ nghĩ đến con người bình thường hơn một chút”. (11.5.73). Về sau, trong những ngày đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, ý thức được sự hữu hạn của cuộc sống, ông có dịp suy ngẫm về những được mất của một thế hệ lớn lên giữa hai cuộc kháng chiến mà ông cho rằng “chưa kịp bước vào đời đã như một con chim bị kẹp giữa hai thanh sắt nung đỏ”. Đây cũng là thời điểm đổi mới của đất nước. Ý thức dân chủ đã giải phóng cho ông khỏi “thói quen của một người vốn quen đi trong một hành lang hẹp, vừa hẹp vừa thấp” khi lật trở những suy nghĩ của mình: “Chiến tranh? Hình như hai chữ này chưa hề có trong ý thức và vốn từ vựng của đám thanh niên hai tư, hai nhăm tuổi chúng tôi hồi ấy”. Chỉ đến cuộc chiến tranh chống Mỹ, sống với đám lính trẻ, quan sát, ông mới nhìn ra “rõ rệt cái tính hồn nhiên như trẻ thơ, thậm chí như chim chóc như thiên thần của đám người trẻ tuổi luôn ồn ào vui nhộn đang tham gia chiến tranh. Một thứ tính hồn nhiên đáng cảm phục đến dễ sợ. Hồn nhiên trước cả cái chết – mà nếu ta nhìn họ bằng con mắt của những người cha người mẹ họ không biết ta sẽ lấy làm đau lòng biết chừng nào!”. Ông nhớ lại một người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã từng lên Ban chỉ huy đại đội nói thẳng ý kiến của mình: “Tôi không cầm súng đi giết bất kỳ ai. Những người mà tôi bắn họ, họ có tội tình gì?”. Mặc dù người lính đó, sau đó đã bị “chúng tôi nhìn như một thằng điên trong đại đội” nhưng trong trận công đồn đêm ấy, anh đã chiến đấu như mọi người lính khác. Và vài tháng sau, anh hy sinh. Nguyễn Minh Châu đã nhớ về “người lính ấy, cái phần ý thức đi trước cả một biển người mang đầy tính khí hồn nhiên mà chính nhờ cái phần hồn nhiên đám quần chúng binh sĩ của những người lính mới có chiến thắng cuối cùng ngày nay”. Ông đã nhìn sâu vào bản tính, nhân cách của con người cá nhân và rút ra rằng: nhận thức về sự đổi đời, truyền thống yêu nước cùng với bản tính hồn nhiên và phần nào nữa là lòng tự trọng…những đức tính đó đã cùng xuất hiện đồng thời trong những con người tham gia chiến tranh và tạo nên một sức mạnh tổng hợp làm nên chiến thắng. Ông là người sớm nhận ra những khó khăn của thời hậu chiến. Tiểu thuyết Miền cháy tuy viết theo cảm hứng sử thi nhưng đã thể hiện được tư tưởng: bước ra khỏi chiến tranh, khó khăn bày ra trước mắt cũng không kém trong chiến tranh. Theo ông, nhà văn nhất thiết phải viết cho sống động những khó khăn gian khổ khi dân tộc ta bước vào một giai đoạn mới của lịch sử. Khó khăn đó, trong ghi chép ngày 31-3-1973 ông đã hình dung ra “Cuốn tiểu thuyết về chiến tranh: một anh giải phóng cõng trên lưng một anh thương binh ngụy, mà đi lên một con đường dốc”. Tôi nghĩ, phải có một tình cảm và tư tưởng đến độ nào đó thì vào thời điểm ấy mới có một cách nghĩ, cách nhìn nhân văn về chiến tranh, một hình dung về những khó khăn mà dân tộc ta sẽ phải đương đầu như vậy.
Di cảo của Nguyễn Minh Châu còn cho thấy tính chuyên nghiệp của nhà văn. Ông đã đến các vùng giao tranh ác liệt trong chiến tranh, ghi được những tư liệu quý, viết ra được những tác phẩm đã xuất bản và còn rất nhiều những tác phẩm đang ở dạng phác thảo: hoặc đã có đề cương chi tiết như Chân trời vỏ đạn, hoặc đang có những dự kiến về cốt truyện, nhân vật như Những người anh hùng của tiểu đội tôi ngoài chiến hào, Hai bờ sông Hiền Lương, Cô gái trong làng, Những dặm đường – Những người trẻ tuổi… Với ông, luôn luôn là những dự định cho những sáng tác mới để khi viết xong tác phẩm này ông có thể bắt tay ngay vào tác phẩm khác. Đọc, nghĩ và lật xới, luôn trăn trở trong suy nghĩ, đó là đặc tính của ngòi bút Nguyễn Minh Châu. Phần Nghề văn trong Di cảo càng cho thấy rõ được điều này.
Dưới tiêu đề Văn học và Nhà văn là những trang viết của Nguyễn Minh Châu mà không ít đã từng là phác thảo của một số bài tiểu luận phê bình đã được công bố và sau đó đã được tuyển chọn trong tập phê bình tiểu luận Trang giấy trước đèn. Ở đó, ông đã sửa sang, đẽo gọt cho hoàn chỉnh hơn nhưng cũng an toàn hơn. Còn ở đây là những suy nghĩ ở dạng mộc của ông về vai trò, trách nhiệm từ tâm thức của người nghệ sỹ, trong yêu cầu của một người làm nghề cũng như những suy nghĩ tản mạn của ông về văn học phương Đông và phương Tây…Ông cho rằng “mỗi người viết có thể đưa ra một định nghĩa với những tiêu chuẩn của một người cầm bút chân chính. Riêng ý tôi, có một điều bất kỳ một người cầm bút nào cũng không có quyền thiếu, đó là tinh thần trách nhiệm với con người, với cuộc sống. Nhà văn là một người rất nặng nợ với đời. Tôi đặt cho mình một nhiệm vụ phải có tinh thần trách nhiệm với con người”. Ông cho rằng con người chỉ thành người khi theo đuổi một cái gì vượt lên khỏi con người. Văn học nghệ thuật phải thể hiện cho được bí mật của cái thế giới mà ta gọi là cá thể . Đây là một công việc không hề dễ dàng. “Chúng ta phải học tập thế giới rất nhiều (ví dụ chúng ta có thể tiếp thu các phong cách và hình thức tiểu thuyết…) nhưng dù có đọc hàng nghìn cuốn sách đủ các khuynh hướng của những người cầm bút thiên tài thế giới cũng để trở về với mình, trở về với những vấn đề sinh tử trong cuộc sinh tồn của những con người Việt Nam, trở về dùng ngòi bút đào sâu vào nền văn hoá, tiếng nói triết lý dân gian thâm trầm, những thói tục, trở về với tất cả những gì vừa bộc lộ, vừa bí ẩn đã có hàng năm làm nên hình hài, trí thức và tâm hồn nhà văn của chính ta. Và cái hành trình đào sâu vào vẻ đẹp cũng như những giá trị tinh thần của dân tộc mình cũng là hành trình của nền văn xuôi của chúng ta đi đến giao tiếp với thế giới. Tôi trộm nghĩ rằng đấy là con đường để nền văn xuôi của chúng ta đạt tới tính hiện đại”. Trở trăn, day dứt trước thực trạng của đất nước nói chung, của văn học nói riêng sau ba mươi năm chiến tranh, trong ông luôn hối thúc những suy nghĩ làm thế nào để nhân dân sống đúng với ý nghĩa là Con Người, làm sao cho văn chương nước nhà đặt ra được những vấn đề cốt tử của đời sống, của dân tộc. Ông viết “Sau ba mươi năm chiến tranh, dân tộc ta làm anh hùng, và đến bây giờ dân tộc ta đang bắt đầu một hành trình mới – hành trình tự hoà mình với nhân loại- có thể nói bây giờ ta mới học trở lại làm người. Nói gì thì nói ta cũng chỉ là một mảnh của nhân loại. Trong bối cảnh đó, văn học ta sẽ làm gì, làm nên gì, và phải làm gì? Để đem dân tộc ta hoà đồng với nhân loại”. Suy nghĩ đó của ông, cho đến thời điểm này, dầu đã ngót ba mươi năm nhưng trong yêu cầu giữ gìn bản sắc dân tộc trong hoàn cảnh hội nhập của một “thế giới phẳng”, nó vẫn còn nguyên ý nghĩa đối với những người cầm bút.
Chúng ta có thể bắt gặp đó đây những suy nghĩ nghiêm túc mang tinh thần phản biện, những nhận định xem ra không hẳn là không gợi cho chúng ta những suy nghĩ, đặc biệt là vào thời điểm đó ông đã có một quan niệm rất mới mẻ về hiện thực: “Các nhà văn đang cố nắm bắt không những cái thực mà cả cái hư ảo của đời sống, không những nắm bắt hiện thực mà còn muốn nắm bắt cái bóng của hiện thực và cái đó mới là cái hiện thực đích thực”. Những năm cuối đời của ông là những năm đất nước đang trong quá trình đổi mới. Đây cũng là thời gian ông có những suy nghĩ sâu sắc về tư tưởng nông dân trong cách mạng XHCN ở Việt Nam, trăn trở về nhân cách của nhà văn trong cơn lốc mưu sinh khi “mọi tính cách đều bị nghiến nát, đều bị tha hoá”. Giữa dòng đời nhà văn không được quên rằng cái ác đang tồn tại, phải nhìn cho ra cái mưu mô giả trá đang ẩn trong bóng tối. “Nhà văn không phải là diễn viên trên sàn diễn. Nhà văn không phải là loài có cánh. Nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm hoạ, giữa thập loại chúng sinh”. Trong những trang nhật ký ghi về chuyến về thăm quê hương Quỳnh Lưu lần cuối cùng, ông đã có rất nhiều suy nghĩ sâu sắc về văn chương, về cuộc sống. Tư tưởng này sau đó đã được ông viết nên Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh hoạ và Ngồi buồn viết mà chơi. Đọc di cảo của ông, qua những ghi chép giàu chất văn học về thiên nhiên, con người, những suy nghĩ về nghề nghiệp… càng thấy rõ hơn cảm hứng nhân văn của một nghệ sỹ đích thực như một thứ men ngấm vào từng con chữ.
Hai mươi năm. Đất nước nói chung và văn học nói riêng đã có nhiều thay đổi, đã tiến được những bước khá dài. Vậy nhưng Di cảo Nguyễn Minh Châu vẫn mới. Mới vì đó là những trang tư liệu sống mà đọc nó, ta như được sống lại một thời đạn lửa, đau thương. Mới bởi ông là nhà văn viết về chiến tranh đau nỗi đau sâu thẳm, tận cùng của con người trước sự huỷ diệt ghê gớm của nó. Mới bởi ông thật sự là một nhà cách tân: ông không chịu vừa lòng với những gì được viết ra, luôn tự làm mới mình bằng những suy nghĩ hướng văn chương trở về với ý nghĩa đích thực của nó. “Nhà văn trong khi làm ra tác phẩm một cách đầy nhọc nhằn thì tác phẩm cũng là một cái gì đầy hiệu quả để tạo nên diện mạo của nhà văn”. Ý nghĩ đó của Nguyễn Minh Châu quả là trùng khít với cảm giác của nhiều người khi đọc di cảo của ông..
Di cảo Nguyễn Minh Châu còn cho chúng ta hiểu thêm về một thế hệ văn nghệ sỹ dấn thân, một thế hệ trong hoàn cảnh đặc biệt đã làm tròn vai trò công dân nhưng cũng thấy rất rõ những hạn hẹp của một nền văn chương thời chiến và ý thức trách nhiệm của người nghệ sỹ chân chính. Thật tiếc cho một tài năng sớm ra đi khi bao nhiêu dự định đầy hứa hẹn đang được triển khai…