Có hai vợ chồng một ông già nọ ngày đêm buồn phiền vì không con. Một buổi lên nương, ông bà bỗng thấy một đứa bé ốm yếu, khắp người chi chít ghẻ lở, nằm khóc oa oa bên đường. Bà già nói với chồng:
– Ai đem con ném ở đây chắc là ý Giàng muốn cho ta.
Ông lão gật đầu, bảo bà vợ ẵm đứa bé về nhà nuôi. Họ đặt tên cho nó là Tiều A Lé.
Hai vợ chồng ông già rất mực yêu thương đứa bé. Có bao nhiêu của cải dành dụm được bấy lâu nay, họ đều đem ra đổi lấy gạo, muối, thịt cá để nuôi Tiều A Lé. Những ngày nắng cũng như mưa, bà già đều ẵm cậu bé trên tay, còn ông già lặn lội khắp nẻo suối khe kiếm thêm con ốc, con cua khe về nuôi bé.
Tiều A Lé ngày một lớn lên, nhưng vẫn ốm yếu, oặt oẹo và ghẻ lở, mụn nhọt đầy người. Hai ông bà đã đem nồi đồng, bạc nén đi đổi lấy thuốc chạy chữa mà ghẻ lở ở người Tiều không bớt đi được chút nào. Chạy hết các thứ thuốc, ông bà lại đi mời hết thầy mo gần, thầy mo xa, thầy mo lạ, thầy mo quen đến cúng, mà bệnh tình A Lé vẫn không giảm bớt.
Mười lăm mùa rẫy đi qua, thân thể Tiều có dài ra, mồm Tiều có nói năng được nhưng vẫn phải nằm liệt giường. Lúc ăn, lúc uống, ông bà già phải bón từng miếng cơm, đưa từng ngụm nước.
Của cải trong nhà vơi dần, hai ông bà tuổi ngày một cao, còn sức ở chân, ở tay đã hết. Những ngày động trời, những đêm giá rét, ông già ôm ngực ho khù khụ, còn ở góc nhà thì bà lão rên hừ hừ.
Rồi một đêm rét mướt, ông già cất giọng khàn khàn yếu ớt, bàn với vợ:
– Bà nó à! Ta hết lòng thương con, nhưng liệu có sống được mà nuôi nó nữa không?
Bà già run rẩy trả lời:
– Vợ chồng mình chết, e nó cũng chết theo mất thôi! Nên làm sao bây giờ ông ơi!
Suy nghĩ hồi lâu, ông già bảo vợ:
– Bà nó à! Mình già mình chết! Nó còn trẻ phải để nó sống chứ!
– Biết vậy, nhưng liệu có ai chịu nuôi nó?
Bàn đi tính lại mãi, cuối cùng hai ông bà quyết định sẽ đổi căn nhà của mình lấy một chiếc bè. Có bao nhiêu thức ăn, vật dụng trong nhà, họ chuyển cả lên bè và đặt Tiều A Lé lên đó, rồi thả cho trôi theo dòng nước để may ra có bến thương, bến quý nào nhận nuôi nó lớn lên thành người.
Việc bàn bạc đó được thực hiên. Đứa bé A Lé ra khỏi bến quen, ông bà quay về bản cũ, nằm ngủ trên nền nhà trống. Họ ngủ một giấc dài và không bao giờ dậy nữa.
Chiếc bè đưa Tiều A Lé xuôi mãi theo dòng nước, đến mấy tuần trăng thì dạt vào một bến lạ.
Bến ấy là của một bản đông người, nhà ở rải rác trên một triền núi dài, nhiều như cả một đàn voi đứng giữa đồi tranh.
Người trong bản đi lấy nước trên bến thấy chiếc bè lạ đều tò mò dòm ngó. Thấy một chàng trai bẩn thỉu nằm trên bè, người ta xỉ mũi, khạc nhổ, lấy sào đẩy bè ra giữa dòng cho nó trôi đi. Nhưng mỗi lần chiếc bè bị đẩy ra giữa dòng nước, chỉ xoay xoay rồi lại dạt vào bến cũ.
Mỗi lần có người xuống khe lấy nước, Tiều A Lé thường ngả tay xin ăn. Con trai, con gái, người già, người trẻ nghe tiếng nó xin xỏ, đều quay mặt đi, vội lánh xa.
Chuyện chiếc bè lạ chở một người ghẻ lở, bẩn thỉu dạt vào bến, lọt đến tai A Nha giàu có. A Nha cho tôi tớ xua đẩy chiếc bè đi, nhưng cũng như mọi vận, chiếc bè bị đẩy ra rồi lại xoay vào chỗ cũ.
Cô con gái út A Nha nghe tôi tớ về bàn sự lạ cùng tò mò lấy cớ xách bầu đi múc nước để xem sao. Vừa đến gần bờ cô gái đã nghe tiếng gọi từ trên bè:
– Cô gái ơi, cho tôi xin ngụm nước.
Thấy chàng trai đau ốm tội nghiệp, lại đang bị hất hủi, cô gái rủ lòng thương, múc ngay cả một bầu nước đầy, đưa lên bè cho anh ta.
Tiều A Lé uống nước xong, lại nói:
– Tôi đói quá. Cô gái cho tôi ăn với!
Nghe chàng trai nói vậy, cô gái ton tả trở lại nhà mang típ(1) cơm của mình đem xuống cho A Lé. Được cơm, anh ta lại kêu:
– Tay tôi nhức buốt quá, không đưa cơm vào miệng được, biết làm sao cô gái ơi!
Chần chừ một lúc, cô gái bước bạo lên bè bón cơm cho chàng trai ghẻ lở ăn.
Chuyện cô gái út A Nha cho chàng trai lạ ghẻ lở uống nước, ăn cơm chẳng mấy chốc từ mồm người này truyền sang tai người kia, lan ra khắp bản và đến tai A Nha. A Nha giận lắm, vừa thấy mặt con gái út dưới chân thang sàn, A Nha đã quát xua đuổi, tiếng quát vang như cọp gầm:
– Đứa con mất nết kia! Mày đã dây bẩn rồi! Tao không cho mày lên sàn, không nhận mày làm con tao nữa!
“Giúp đỡ người bệnh hoạn, đau ốm mà là mất nết sao? Cái lí đúng không như lời cha bảo đâu!” Cô gái út toan cãi lại, nhưng thấy nét mặt hầm hầm của cha, tay cha lại đang lăm lăm ngọn giáo, nên cô cúi đầu, quay ngoắt người đi thẳng về bến nước.
Dân bản nghe A Nha to tiếng đều kéo đến bây kín dưới chân dàn. Nghe A Nha mắng nhiếc cô gái út, có kẻ thương, có người giận, những chẳng ai dám nói một lời bênh vực. Cả những kẻ xấu bụng đã từng mách lẻo chuyện cô gái thương thằng ghẻ, giờ thấy cô lầm lũi đi xuống bến nước, cũng cúi gằm mặt, băn khoăn.
Cô gái leo thẳng lên bè của Tiều A Lé và đẩy bè ra giữa dòng rồi cô nói với anh ta:
– Anh cho tôi ở nhờ với. Cha tôi đuổi tôi ra khỏi bản rồi!
Lần này, chiếc bè ra giữa dòng chảy thì trôi xuôi chứ không lộn quẩn trở lại như trước nữa. Nghe cô gái bảo vậy, Tiều A Lé liền nói:
– Cô muốn ở thì ở chứ tôi chẳng giúp gì được cho cô đâu. Tôi ốm đau, ghẻ lở thế này…
Cô út chỉ chớp mắt, im lặng, mắt nhìn theo con nước đang đưa chiếc bè trôi miết về xuôi. Cô gái út lo lắng, không biết chiếc bè sẽ đưa mình đến bến bờ nào?
Chiều hôm đó, chiếc bè dạt vào một bờ vắng và mắc cạn luôn ở đó. Tiều A Lé hỏi cô út:
– Cô đi với tôi không sợ sao?
Cô út trả lời ngay:
– Sợ kẻ đau yếu, bệnh tật ư? Không! Tôi đi theo vì thương anh thôi.
Tiều A Lé lại hỏi:
– Tôi có gì cho cô ăn đâu?
Cô út bảo:
– Ơ! Rừng của Giàng lắm củ, lắm trái. Con khỉ trên cây, con cá dưới nước có ai nuôi chúng đâu.
Tiều A Lé vặn lại:
– Cô đi trên bè tôi, mong tôi chết để lấy bè à?
Cô út rơm rớm nước mắt bảo:
– Anh nghĩ thế à? Tôi thương anh đem hai bàn tay đến để nuôi anh đấy chứ!
Tiều A Lé quay mặt đi.
Cô gái thấy thế cũng không nói gì thêm nữa. Cô nhảy lên bờ, bứt lá chuối, bẻ cây đem về làm tạm một cái mái che bè. Làm xong thì trời sắp tối, áo váy của cô út bị rách tơi tả. Tiều A Lé nhìn cô gái hồi lâu, rồi bảo:
– Em gỡ dưới mái che, lấy áo váy ra mà mặc.
Cô út nhìn quanh ngơ ngác, ngỡ A Lé nói quẩn. Cô ngồi thụp xuống góc bè. Tiều A Lé lại nhắc:
– Đi thay áo, thay váy đi, áo váy đã có sẵn dưới mái che bè ấy.
Mái che do chính cô út lợp bằng lá chuối làm gì có áo, có váy ở đó? Nhưng nghe A Lé giục, cô út nể lòng, đứng lên sờ tay vào mái lá. Chẳng ngờ chuyện có thật. Ở ngay trong lớp lá chuối cô mới lợp lên có mấy bộ áo váy đẹp để sẵn. Cô gái mừng rỡ, mặc áo váy đẹp vào người.
Tiều A Lé lại bảo:
– Em đói rồi. Từ sáng đến giờ em đã ăn gì đâu.
Lòng cô út rộn lên, quên cả đói:
– Em còn no. Ngày mai em sẽ lên rừng đào củ, hái trái về, hai ta cùng ăn.
A Lé xoay người nói:
– Chẳng phải đợi đến sáng mai. Em đói rồi thì cứ lấy cơm canh trên góc mái xuống mà ăn.
Khi cô gái với tay lên góc lán lấy thức ăn thì ngay trên liếp bè phía gần sau lưng cô chợt bùng lên một bếp lửa.
Cô gái bưng cơm canh xuống, ngồi bón cho Tiều A Lé và cả mình cũng ăn bên bếp lửa bập bùng, ấm cúng. Sự lạ ấy ban đầu làm cô út ngỡ ngàng, nhưng lâu dần cũng quen đi. Ngày qua ngày, cô út được ăn no lại có áo váy đẹp, cô càng trở nên xinh đẹp hơn.
Mỗi ngày một lần, cô út vào rừng kiếm lá, đào rễ cây thuốc về chữa chạy bệnh tình cho Tiều A Lé. Thấy cô gái chăm sóc mình vậy. A Lé nói:
– Bệnh của tôi khó lành lắm. Em đi vậy tốn sức nhiều quá!
Nghe A Lé nói vậy, cô út chỉ cười.
Chuyện lạ về Tiều A Lé và ôc út đã lọt vào mắt những người tò mò, lại từ miệng người này, sang tai người nọ rồi đến tai A Nha.
Lúc giận, A Nha đuổi cô út đi nhưng lúc con đi xa rồi thì niềm thương, nỗi nhớ như con kiến bò, như con ong đốt bụng A Nha. Duy chỉ có lòng ghét con người ghẻ lở, bẩn thỉu đã rủ rê con gái ông thì vẫn còn nguyên vẹn. Nay nghe tin con gái sống đầy đủ, lòng A Nha có êm êm, bớt nỗi lo đôi chút.
Bỗng đâu có một lũ Nhắc(2) từ phía rừng đang đêm vào cướp bản. Chúng giết trẻ con, đánh bọn người lớn và vơ vét hết của cải nhà A Nha.Trong cơn hoạn nạn, A Nha và những sống sót trôi dạt tận đâu đâu.
Tin đó đến tai cô út và Tiều A Lé. Cô út khóc ròng còn A Lé chỉ nín thinh.
Một hôm, như thường lệ, cô út lại vào rừng lấy thuốc. Mãi đến lúc mặt trời chạy quá nửa vòng đầu, gác ngay vành tai, cô út lại lán, không còn thấy Tiều A Lé đâu.
Lục quanh lán, thấy típ cơm đã xắn ăn mất một nửa, bát canh cũng vơi đúng một nửa, cô út rất lo lắng. Đã có bao giờ Tiều A Lé tự xúc cơm ăn đâu? Hay đã có một người nào đến đây mang A Lé đi mất? Cô út sờ tay lên mái lán, lại thấy mình có thêm nhiều bộ áo váy mới. Cô sờ tay vào góc lán, lại thấy trên tay nặng trĩu. Từ đó, cô kéo ra đúng một gùi gạo với nhiều miếng thịt khô, một ống muối đầy.
“Thôi phải rồi, Tiều A Lé đi đâu đây, nên đã lo đủ cho mình cái ăn cái mặc trong những ngày chờ, những đêm nhớ”. Nghĩ vậy rồi, cô út lấy típ cơm, bát canh ra ăn.
Lại kể về Tiều A Lé.
Khi cô út vào rừng thì A Lé bỗng ngồi dậy và hiện nguyên hình là một chàng trai đẹp, khỏe. Vấn chiếc khố đỏ gọn gàng, giắt đầy một ống tên dài, Tiều A Lé ăn hết một nửa phần cơm canh, rồi cầm giáo, mang ná nhảy lên bờ, đi về phía bản A Nha.
Từ xa, chàng đã nhìn thấy bọn Nhắc đông vô kể. A Lé giương ná, lắp tên, bắn vèo một mũi giết một lúc hai đứa. Lũ Nhắc thấy vậy nháo nhác cả lên.
Lại một mũi tên nữa bay vèo vào bản, xuyên chết thêm hai đứa. Thằng Nhắc cầm đầu đã nhận ra phía mũi tên bay tới bắn lén bọn chúng. Hắn gầm lên như tiếng gầm của con hổ đực, gọi tất cả bè lũ phóng lao về phía Tiều A Lé.
Hàng trăm mũi lạo nhọn thi nhau bay về một góc rừng. A Lé vung giáo lên đỡ, gạt các mũi lao. Các cây lao bị gạt đều gãy vụn ra, bay trở lại đường bản, biến thành một trận mưa chông, mưa tên, trút ào ào vào đầu lũ Nhắc. Thềm nhiều thằng Nhắc nữa chết trong trận mưa chông, mưa tên dữ dội đó.
Lũ Nhắc nhận ra kẻ thù của chúng có sức mạnh kì lạ. Chúng bèn chạy vào hẻm núi để dựa vào gốc cây, bờ đá chống lại. Tiều A Lé múa giáo đuổi theo, giết thêm không biết bao nhiêu thằng Nhắc khác. Lũ Nhắc sống sót đã lần được một lèn đá dốc đứng, thấy Tiều A Lé đã chạy đuổi đến sát dưới chân, chúng hè nhau xô những hòn đà to như những con trâu đực, con lợn rừng từ trên cao nhào xuống.
Tiều A Lé buông giáo, giơ tay đỡ những hòn đá to tướng ấy, nhẹ nhàng ném bật trở lại đỉnh lèn, tạo nên những tiếng sấm , tiếng sét ầm ầm làm rung chuyển, đổ sụp cả đỉnh lèn, giết chết hết lũ Nhắc.
Leo lên đỉnh lèn đã bị đánh đập tan hoang, mỗi tay Tiều A Lé xách thêm năm xác thằng Nhắc chết, đem về rải ra khắp bản.
Cô út thấy một chàng trai to lớn, ngực rộng, lưng dài, mắt sáng hiện ra trên bến nước, thì hoảng hốt thu mình lại trong góc lán. Người con trai ấy gọi lớn:
– Em ơi! Tiều A Lé đã về đây!
Cô út bưng mặt khóc nức nở, chối từ:
– Anh đi đi! Anh không phải là Tiều A Lé của tôi. Tiều A Lé của tôi khác cơ.
Chàng trai cười:
– Thì chính anh đây chứ còn Tiều A Lé nào nữa?
Cô út quay lưng lại người trai lạ và khóc to hơn:
– Ôi! Tôi đương mỏi mắt chờ Tiều A Lé tôi về! Lá thuốc tôi đã kiếm về đây. Anh là ai? Anh đi đi, đừng đến đây phá tổ, đạp hang của chúng tôi!
Tiều A Lé bước lên bè nghiêng hẳn về một bên. Cô út hoảng hốt kêu to:
– Ối! Ối!
Tiều A Lé chợt biến thành chàng trai ghẻ lở ngồi trước mặt cô út. Cô út mừng rỡ, reo lên!
– Ôi! Tiều A Lé!
Cô nắm lấy bàn tay nhớp nháp của A Lé. Bỗng dưng con người ghẻ lở ấy biến mất. Như trong mơ, cô út đang nắm bàn tay đen rám, chắc nịch của người con trai khỏe mạnh. Chàng nói:
– Em đừng sợ. Anh không còn ghẻ lở nữa. Giàng đã cho anh mang cái lốt bẩn thỉu ấy về do lòng tốt của con người trên miền đất này. Em là người rất tốt, tốt nhất trên thế gian. Anh cùng em làm vợ, làm chồng.
Cô út mừng vui vô hạn, nước mắt cứ trào ra. Hai bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của cô cứ nắm chặt bàn tay to bè, nâu rám cuồn cuộn gân của chàng trai.
Tiều A Lé kể chuyện mình đã đi giết xong lũ Nhắc cứu bản A Nha cho vợ nghe, cô út càng hởi lòng, hởi dạ. Nghe chồng kể, tưởng mình đang trong cơn mơ.
Hồi lâu, Tiều A Lé nhìn vợ và bảo:
– Em à! Anh giết xong Nhắc nhưng chưa tìm được A Nha. Con nai vàng làm sao gọi được bầy hươu lạc trở về.
Cô út còn trong cơn xúc động nói với Tiều A Lé:
– Tiều A Lé à! Lá xanh mắc trên cành, lá vàng rơi cũng chỉ rơi về cội. Anh cho em đi tìm cha em và dân bản về.
A Lé gật đầu bảo:
– Anh đã nghĩ thế nên anh đem xác Nhắc rải khắp đường bản làm dấu cho em về lại với cha.
Sáng hôm sau, Tiều A Lé cùng cô út quay về phía bản, len lách khắp rừng rậm, núi cao, hú gọi A Nha và dân bản trở về.
Nghe tiếng hú quen, dân bản lục tục kéo về.
Gặp lại cô út, nghe cô kể chuyện Tiều A Lé đã giết hết Nhắc, dân bản còn nửa tin, nửa ngờ. Nhưng khi về bản thấy xác Nhắc nằm chết ngổn ngang, họ mới tin đó là chuyện thật và cử người đi tìm A Nha.
Trong niềm vui được thoát nạn, A Nha càng thêm xót xa về việc làm của mình đối với con gái út trước đây. A Nha cúi mặt, lau nước mắt nói:
– Của cải, trâu bò, cái nhà sàn đẹp che mất con mắt nhìn, làm bẩn tấm lòng cha đối với con.
Dân bản thì vây quanh Tiều A Lé, người sờ vai, kẻ nắm từng cuộn thịt trên bắp tay, trên tấm ngực rộng của chàng. Mỗi người một tiếng khen, có cả tiếng cười, cả những giọt nước mắt mừng vui.
– A Nha à! Con ong làm nên mật mới biết tìm hoa. Hoa La Giong(3) đẹp đấy, nhưng con ong có đến đâu? Hoa Ma koong(4) rơi trên mặt đất ta chỉ ngửi ra mùi hắc mà con ong bâu vào lấy nhụy, lấy phấn, hút mật là tại làm sao? Con út nhà A Nha khác lũ ta ở chỗ đó. Nay A Nha tính sao?
A Nha ngẩng lên, chậm rãi nói:
– Người già nói trúng bụng nghĩ của ta rồi.
Dân bản nghe thế đều vui. Mỗi người một tiếng nói vun vào. A Nha nói tiếp:
– Con gái ta như con chim không biết chọn cành cây gửi tổ. Ta thương nó, dân bản thương nó. Ta biết ơn nó, dân bản biết ơn nó. Còn nó lại bảo nhờ Tiều A Lé. Bụng ta với dân bản cùng một bụng như nó. Nó nhận Tiều A Lé làm chồng, ta nhận Tiều A Lé làm rể, dân bản có nhận Tiều A Lé về ở chung với dân bản không? Người già, dân bản có muốn cho ta làm lễ cúng Giàng không?
Thấy dân bản đều vui vẻ nhận điều tốt lành, ngay ngày hôm sau, A Nha cùng dân bản giết trâu ăn mừng đã trừ được Nhắc và làm luôn lễ cưới cho cô út với Tiều A Lé.
Người già và dân bản đều muốn A Lé làm Xuất (5) làm người mạnh giữ tên ngày vui, giấc ngủ cho dân bản. A Nha trao cả gia tài cho vợ chồng cô út coi giữ cho dân bản vui lòng.
(Truyện cổ dân tộc Bru).
(1): Típ: cái giỏ đựng một khẩu phần cơm trong mỗi gia đình Vân Kiều.
(2): Nhắc: Lũ quỷ, lũ cướp khác dòng máu.
(3) Hoa La Giong: loại hoa vàng, không thơm, không có nhụy phấn.
(4) Hoa Ma Koong: một loại hoa rừng màu vàng, có đài hoa cứng.
(5) Xuất: chủ làng.